CÁC SỨ ĐIỆP CỦA MẸ MARIA (TT)
18. Cha Gobbi với “phong trào Giáo Dân và Linh mục của Mẹ”
Linh Mục Stefano Gobbi sinh ngày 22 tháng 3 năm 1930 tại Como Bắc Italia. Cha thụ phong Linh Mục năm 1963. Đậu Tiến Sĩ Thần Học tại Đại Học Giáo Hoàng Laterano ở Roma.
Ngày mùng 8 tháng 5 năm 1972 trong chuyến hành hương Đức Mẹ Fatima bên Bồ Đào Nha, cha Stefano Gobbi đã đến cầu nguyện tại Nhà Nguyện Hiện Ra, nơi Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ mục đồng Lucia, Giacinta và Phanxicô năm 1917. Cha Gobbi đặc biệt cầu nguyện cho vài linh mục nổi loạn chống lại quyền bính của Giáo Hội. Đức Mẹ đã linh hứng qua cuộc Đàm Thoại Nội Tâm (interior locution) mà cha Gobbi nhận được. Trong đó Đức Mẹ mời gọi cha quy tụ các Linh Mục thánh hiến cuộc sống cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ. Trong cùng tháng đó cha Gobbi cũng nhận được một Sứ điệp khác từ Đức Mẹ trong Vương Cung Thánh Đường Truyền Tin tại Nazaret bên Thánh Địa, cũng bằng phương tiện “đàm thoại nội tâm”, về việc thiết lập “Phong trào Giáo Dân và LM của Mẹ”. Phong trào GD & LM của Mẹ nảy sinh từ cuộc linh hứng đó. Tháng 10 năm 1972 cha Gobbi tổ chức buổi cầu nguyện đầu tiên giữa ba Linh Mục trong giáo xứ Gera Lario thuộc tỉnh Como. Từ ngày đó con số các Linh Mục thành viên gia tăng dần dần. Đức Mẹ đã nói rất nhiều với các con cái Mẹ, qua cha Gobbi. Đặc biệt Mẹ đã mạc khải cho ngài viết cuốn Cùng Các Linh Mục, những người Con Ưu Ái Của Mẹ, tức là “To the Priests, Our Lady’s Beloved Sons”. Đặc biệt kêu gọi các LM, để cấp bách cứu các linh hồn đang sa lầy vào con đường tội lỗi, và sống thác loạn quá ư là hư đốn. Lần nào Mẹ cũng kêu gọi: “Hãy tận hiến cho Mẹ. Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, hễ ai tìm đến Mẹ là gặp được sự sống, lãnh được ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Chính câu nói trên đây của Mẹ, cho chúng ta thấy: Mẹ là phương án cuối cùng Chúa dùng để cứu nhân loại trong thời kỳ cuối này. Cha Gobbi qua đời tại Milano ngày 29 tháng 6 năm 2011. Tính đến năm 2015, Phong Trào Giáo Dân và Linh Mục Của Mẹ Maria gồm nhiều Hồng Y, 350 Tổng Giám Mục, Giám Mục 150.000 Linh Mục triều và dòng, cũng như hàng chục triệu giáo dân khắp năm châu đã hưởng ứng.
(Ngoại biên: Linh hứng (Inspiration) theo các nhà nghiên cứu tâm linh, thì đó là trạng thái cảm giác huyền bí. Nhà nghiên cứu tâm linh người Anh: Frederic W. H. Myers cho rằng cảm giác huyền bí hay tâm linh ấy chỉ xảy ra nhất thời, và chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc hay ít phút, nên ý tưởng phải được viết rất nhanh ra giấy để được bảo toàn.
Tuy nhiên, thiên tài âm nhạc Mozart kể rằng ông cũng gặp linh hứng về âm nhạc. Sự linh hứng nơi ông thường kéo dài chứ không chỉ nhất thời. Mozart thường cảm nhận được linh hứng khi ở một mình, và trong trạng thái phấn khởi, chẳng hạn như tản bộ, hoặc đi dạo bằng xe ngựa, hay những đêm thao thức. Vào những thời điểm này, ý tưởng thường hiện ra rõ nhất, và phong phú nhất. Cùng một lúc ông nghe được các thành phần âm nhạc rót vào tâm tư của ông dưới dạng hoàn chỉnh, rất hoàn chỉnh, chỉ cần viết ra giấy.
* Mozart sinh ngày 27 tháng 1 năm 1765 ở thành phố Salzburg, đó là thành phố gần dãy núi An-pơ (Alper) thuộc Tây Bắc nước Áo. Nơi đây có phong cảnh núi non, sông ngòi hùng vĩ, nơi quê hương của những điệu dân vũ và dân ca tuyệt vời…. Mozart là một cậu bé có năng khiếu âm nhạc hết sức đặc biệt. Khi 3 tuổi, cậu đã nghe chuẩn xác những âm thanh và có thể bắt chước những gì cậu nghe được. Lên 4 tuổi, Mozart đã sáng tác. Người cha sớm nhận thấy thiên tư của cậu, ông bắt đầu dạy Mozart violon và cho cậu học đàn phím, đàn organ. Chẳng bao lâu Mozart đã có thể biểu diễn những đàn này một cách thoải mái trước thính giả. Và thiên tài này ngày càng phát triển.
* Beethoven, sinh ngày 16 tháng 12, năm 1770, tại Bonn, Đức quốc Những người yêu nhạc cổ điển chắc sẽ không thể nào quên được tiếng dương cầm réo rắt làm say đắm lòng người với nhạc phẩm “Lettre à Elise” hay “Sonata quasi una Fantasia” (dạo khúc ánh trăng) của Beethoven. Ông là đại nhạc sư của nền âm nhạc thế giới, nhưng mấy ai biết được, ông cũng là người nghệ sĩ mang trong mình nhiều bệnh, nhất là bịnh mất cảm giác không nghe được âm thanh do mình sáng tạo nên cho nhân loại. Beethoven cho biết mỗi khi ông được linh hứng về âm nhạc, thì toàn thân ông run rẩy, tóc dựng đứng, rồi cảm thấy mình rơi vào trạng thái hòa hợp với thế giới thật kỳ lạ.
* Một trường hợp khác gần giống với trường hợp của cha Gobbi là Helen Cohen Schucman, một nhà tâm lý học ở New York, cũng là giáo sư tâm lý học thuộc cao đẳng đại học Columbia. Trong nhiều năm nàng được một giọng nói nội tâm nghe rất rõ, đọc cho viết bộ sách có tên là A Course in Miracles, một công trình gồm 3 quyển, dài hơn 1100 trang. Helen Cohen Schucman sinh vào đầu những năm 1900, trong một gia đình người Do Thái. William Thetford là người giám sát những công trình lạ lùng này, và cho biết: Những thời gian như thế, Helen trải qua những cảm nghiệm huyền bí. Khởi sự từ tháng 9 năm 1965, nàng nghe được giọng nói phát ra có khi ngày vài lần, lần nào, lời đọc cũng được tiếp tục ngay đoạn đã viết của lần trước, hay ngày hôm trưóc. Giọng nói của một nhân vật tâm linh nào đó thật lịch sự, nghĩa là không hề cản trở công việc, hay sinh hoạt đời sống gia đình, hoặc xã hội của Helen Cohen Schucman. Nhân vật tâm linh đó không hề nhận dạng chính mình, nghĩa là không nói cho biết mình là ai. Nhân vật này thì lại hoàn toàn khác với cô Thủy, tuy cũng là người của thế giới Tâm linh mà tác giả vẫn thường gặp trong suốt mười mấy năm qua, nhưng cô Thủy rất gần gũi, thân thiện và không ngại nhận dạng chính mình, tức là không những bộc lộ thân phận, mà cả cá tính không những lúc còn ở trần gian mình đã là người như thế nào, mà cả hiện thực con người hoàn toàn bây giờ trong TGTL. Tuy nhiên cả hai nhân vật này đều có điểm giống nhau là rất lịch sự, và không hề làm trở ngại đời sống xã hội của đối phương. Chúng tôi xin trở lại với tiếng nói bí mật trong tâm của Helen: Tiếng nói ấy nhỏ nhẹ, rõ ràng, và Helen Cohen Schucman không phải viết như máy, mà hoàn toàn trong tình trạng tỉnh, không chút hôn mê.
– Hội nghiên cứu các nhà tâm linh Mỹ ASPR (American Society for Psychical Research), cũng như Hội nghiên cứu tâm linh Luân Đôn (SPR) đặt tên Alpha cho giai đoạn đầu như cầu nguyện, tịnh tâm, suy niệm, hay thiền định, có khi bao gồm cả việc chay tịnh. Họ gọi giai đoạn Alpha là giai đoạn kỹ năng để có thể đạt được sự linh hứng cao hơn, và dài hơn!
– Tác giả hoàn toàn không dám có nhận định, cũng như vô tư về các trường hợp trên đây, chỉ riêng trường hợp cha Gobbi trước đây đang trong lúc phong trào phát triển, thì có một vài bài báo đặt thành vấn đề, và khả nghi về hiện tượng linh hứng qua tiếng nói nội tâm, nên tác giả có đặt nghi vấn với cô Thủy là người nữ sứ giả của Đức Mẹ trong một số TGTL trước đây, nếu quí vị nào đã nghe tất biết, và đã được chính Đức Mẹ xác nhận đó là một sự thật là chính Đức Mẹ mạc khải cho cha.
Linh hứng theo quan niệm của giáo hội Công Giáo hoàn toàn do thần linh, và người được linh hứng là do sự tuyển chọn đặc biệt của thần linh, như là khả năng nói được những thứ tiếng lạ đầu tiên gặp ở các Thánh Tông Đồ trong lễ Hiện xuống, hay còn gọi là lễ Ngũ Tuần (Cv 2,4), là do Chúa Thánh Thần, và các Thánh Tông Đồ là những người được tuyển chọn. Trường hợp cha Gobbi là được Đức Mẹ tuyển chọn.v.v… Chúng tôi muốn đưa ra trường hợp cha Gobbi là để nói lên ngoài hiện tượng Đức Mẹ hiện ra, người Công Giáo chúng ta còn gặp nhiều hiện tượng lạ có tính thần linh khác nữa, như những trường hợp sau đây:
19. Ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp họ La Mã, Bến Tre lộ hình.
(Lời bạt: Trên thế giới, trong nhửng năm gần đây, Đức Mẹ không chỉ hiện ra nơi này, nơi kia, để ban bố cho nhân loại những Sứ Điệp kêu gọi người ta ngừng lại, đừng tiếp tục phạm tội, và nhất là Mẹ tha thiết kêu gọi mọi người có tội hãy mau mau ăn năn, xám hối, trở về làm hòa cùng Thiên Chúa. Mẹ còn làm nhiều phép lạ chữa bệnh tâm hồn cùng thể xác cho những ai tin và chạy đến kêu cầu với Mẹ, nhất là tại các trung tâm hành hương ghi dấu những nơi Mẹ đã hiện ra như ở Lourdes (tức Lộ Đức); hay ở Fatima, hoặc tại La Vang v.v… Chưa hết, Mẹ thấy thế giới ngày nay, người ta càng ngày càng sống trong lối sống tôn thờ vật chất, đánh mất thần linh và xem nhẹ tất cả mọi giá trị tinh thần, thậm chí con người như không còn biết có Tâm Linh. Những người có đạo, thì không ít dẫu biết là mình có linh hồn, nhưng con mắt của tâm linh đã đóng lại từ khuya rồi! Họ chỉ còn có con mắt của thể xác, mà con mắt thuộc về nhục thể, thì chỉ nhìn được những gì thuộc về vật chất, nếu không muốn nói là nó bị thu hút vào trong đống hoang phế, xấu xa của loài người, để nghe lời thủ lãnh của thế gian bảo rằng: đó mới chính là thực tại những nhu cầu cụ thể mà đời sống cần thiết. Còn tất cả những gì gọi là lý tưởng, thì tựa hồ như trăng sao, nghĩa là những sự sống trên mây, tuy là có óng ánh đấy, nhưng quá xa vời với cuộc sống hiện tại nơi trần thế. Khi người ta chỉ nhìn thấy được những hiện vật trước mắt, với những mặt lung linh quyến rũ của nó, thì câu hỏi “đời sau sẽ ra sao?” chỉ là tiếng gió xào xạc ngoài vỉa hè, không mảy may làm trăn trở một thân xác cuộn tròn trong giường hộp có nệm êm và chăn ấm! Trong một kỳ TGTL trước đây, chúng ta đã biết: Chẳng ai nghĩ đức tin mình đã mất, vì trong đinh ninh của trí óc, ai cũng nghĩ đức tin của tôi vẫn tồn tại, nhưng cái tồn tại đó là bao nhiêu và gồm những gì, thì người ta không biết! Nên kẻ thù lợi dụng vào cái không biết đó mà lấy cắp từ từ, đánh cắp dần dần, cho đến khi sức quyến rũ của vật chất hoàn toàn ngự trị trong tâm hồn con người, thì người ta không còn kể gì tới đời sau nữa! Những nhà vô thần từng bảo: “đời sau chỉ là tấm bánh vẽ đủ mọi màu sắc của tôn giáo”. Khi ấy thì linh hồn họ đã chết ngay từ khi thể xác vẫn còn sinh tồn, cho nên Chúa mới bảo: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết” là thế (Mt 8,19-22). Trên Thiên đàng Đức Mẹ đã phải khóc nhiều, vì thế hệ này, cũng là con cái của Mẹ, nhưng nhiều kẻ sống mà như đã chết. Nhưng vì không ai thấy được những giọt lệ trên Thiên đàng, và nếu ai đó nghe được sứ giả của Mẹ là cô Thủy nói trong TGTL rằng: Đức Mẹ khóc, cả Thiên Đàng đều biết, thì chưa chắc họ đã tin, nên trong những năm gần đây, Mẹ đã tỏ cho thấy có nhiều hiện tượng lạ xảy ra khắp nơi trên thế giới, như: Ảnh tượng Mẹ chảy nước mắt, hay có khi chảy cả máu mắt. Lại có những hiện tượng ảnh, hay tràng hạt chảy dầu với mùi thơm hoa hồng, là biểu tượng của hoa Mân côi, và nhiều sự kiện lạ lùng khác Mẹ làm trong thế giới hôm nay, để thức tỉnh người ta trong cơn mê vật chất rằng: Có một thế giới Thần Thánh, có một quyền năng siêu nhiên thật sự đang hiện diện trong thực tại này, chứ không phải tôn giáo chỉ là thuốc phiện, một thứ gây mê hoặc lòng người như người CS rêu rao; cũng không phải là sản phẩm của một nền văn hóa nào đó, do tư tưởng con người nặn ra như sự ngụy luận của những kẻ chống lại Thiên Chúa! Cho nên ngoài việc Đức Mẹ hiện ra nhiều nơi trên thế giới, Mẹ cũng cho người ta thấy nhiều hiện tượng lạ lùng xảy ra ở nơi này, nơi kia, để phục hồi lại đức tin nơi những người đang yếu kém, và cũng để làm sinh sôi nảy nở mầm mống niềm tin nơi những người chưa có cơ hội nhận biết Chúa. Trong chiều hướng ấy, chúng tôi cũng xin ghi lại một vài sự kiện điển hình ở nơi đây về các hiện tượng lạ đã và còn tiếp tục xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Sau đây là câu chuyện về bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp lộ hình thuộc giáo họ La Mã, Bến Tre).
* Khoảng năm 1930, linh mục Luca Sách, chánh xứ Cái Bông, đến thành lập họ đạo Sơn Đốc, thuộc Tỉnh Bến tre và tặng cho nhà thờ này bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có lồng kính. Năm 1947, vì Chiến tranh Đông Dương, giáo dân phải tản cư. Ông Nguyễn Văn Hạt làm trùm họ, đem bức ảnh Đức Mẹ về đưa cho con trai mình là Nguyễn Văn Thành cất giữ. Năm 1949, họ đạo Bầu Dơi được thành lập và Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục đặt tên là họ đạo La Mã, Bến Tre. Bức ảnh Đức Mẹ được đặt trở lại trong nhà thờ của họ đạo La Mã.
Ngày 2 tháng 2 năm 1950, quân Pháp đến bố ráp vùng Bầu Dơi, nhiều nhà dân bị tàn phá nặng nề. Dân chúng, kể cả các giáo dân, đều chạy loạn. Một giáo dân (không rõ tên) cố mang theo bức ảnh Đức Mẹ chạy loạn, trong lúc chạy bức ảnh bị rơi xuống sông. Ba tháng sau, ngày 5 tháng 5, một nữ tín đồ Cao Đài tên Võ Thị Liễng (có bản ghi là Liềng) đi mò cua bắt ốc đã vô tình vớt được bức ảnh, tuy còn nguyên khung, nhưng không còn hình ảnh mà thay vào đó là bùn đất. Ông Thành bèn xin bức ảnh về nhà và làm mọi cách để rửa, tuy nhiên ảnh bị ố vàng và phai mờ nên không thể tôn kính được nữa. Ông Thành bèn treo ảnh trên mái hiên nhà để che mưa nắng. Tháng 8 cùng năm, ông Trùm Hạt sang giúp con chuyển nhà về quê vợ ở Tam Bình, vô tình nhìn thấy, nên đã đem bức ảnh về nhà mình đặt trên tủ thờ. Năm tháng sau, vào ngày 7 tháng 10 năm 1950, một chiếc tàu Pháp chạy dọc theo con rạch trước nhà ông Biện Hạt bắn phá lung tung. Căn nhà của ông Hạt và những nhà chung quanh đều bị đạn bắn phá tan tành, duy chỉ còn tủ thờ và tấm vách lá phía sau là còn nguyên vẹn. Bức ảnh vốn đã bị phai nhạt hết hình, nay lại nổi lên rõ ràng cả từng nét ảnh, lẫn mầu sắc, duy chỉ còn mũ triều thiên trên đầu Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng là còn lu mờ (ghi chú của tác giả: Có lẽ Đức Mẹ làm ra như vậy, để không ai nghi ngờ rằng có sự đánh tráo bức ảnh này bằng một bức ảnh khác). Sự kiện này được các giáo dân tôn sùng như một phép lạ thứ nhất về tấm ảnh. Sau sự kiện này, ông Biện Hạt đã đưa bức ảnh trả lại cho nhà thờ Cái Bông. Lời đồn về sự lạ với bức ảnh Đức Mẹ “lộ hình” lan nhanh. Nhiều giáo dân và những người hiếu kỳ tìm đến để đọc kinh cầu nguyện, xin ơn và chiêm ngưỡng ảnh Đức Mẹ Lộ Hình. Ngày 20 tháng 6 năm 1951, họ đạo La Mã khánh thành ngôi nhà thờ mới, bức ảnh được giáo dân đón rước trọng thể từ nhà thờ Cái Bông trở về nhà thờ Họ La Mã, Tỉnh Bến Tre. Ngày 15 tháng 8 năm 1951, nhân dịp lễ Đức Mẹ Mông Triệu, linh mục Phêrô Dư, quản sở họ đạo Cái Sơn, kiêm quản nhiệm họ đạo La Mã, đã tổ chức cung nghinh bức ảnh từ họ đạo La Mã đến họ đạo Cái Sơn. Trong thời gian tổ chức lễ, các giáo dân chứng kiến bức ảnh một lần nữa biến đổi: mũ Triều thiên trên đầu Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng hiện ra thật rõ ràng. Thêm vào đó, bức ảnh lúc mới được vớt lên, giấy ảnh gắn chặt vào kính, nhăn nhúm ố vàng và có nhiều lỗ thủng, còn bấy giờ thì hiện ra rõ ràng, các lỗ thủng đã biến mất. Sự kiện này được các giáo dân tôn sùng như phép lạ thứ hai của bức ảnh.
Bức ảnh sau đó lại được trả về cho nhà thờ họ La Mã. Những lời đồn đại về phép lạ của bức ảnh lan rộng, thu hút ngày càng nhiều giáo dân và những người hiếu kỳ. Họ đến kính viếng, cầu xin và được nhiều ơn lạ hồn xác. Sự việc đến tai Giám mục Vĩnh Long Phêrô Mactino Ngô Đình Thục. Ngày 12 tháng 1 năm 1952, Đ. Cha Ngô Đình Thục đã bí mật đến nhà thờ La Mã để nghe thuật lại. Sau đó, ngài đã cho thành lập một ủy ban gồm có các linh mục triều và dòng, để cứu xét về “Sự lạ ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Họ La Mã”.
Ngày 20 tháng 10 năm 1952, theo quyết định của Ủy ban cứu xét về “Sự lạ La Mã”, bức ảnh được đưa về nhà thờ Cái Bông. Ủy ban cũng mở cuộc điều tra, cho mời những người có liên hệ, các giáo dân tuyên bố nhận được phép lạ đến để tường thuật lại, và ghi nhận các lời chứng, để hoàn thành hồ sơ điều tra phúc trình về Tòa thánh. Trong dịp này, Giám mục Phêrô Mactino Ngô Đình Thục đã tuyên bố chọn La Mã là nơi đặc biệt kính ảnh “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” hay làm phép lạ. Đầu năm 1957, nhà thờ mới của họ đạo La Mã được hoàn thành. Trong ba ngày 12, 13, 14 tháng 1 năm 1957, lễ khánh thành thánh đường được cử hành trọng thể với sự tham dự của năm vị Giám mục và hàng trăm Linh mục, tu sĩ nam nữ với hàng vạn người dân lương giáo từ khắp nơi đến dự. Từ đó, giáo họ Đức Mẹ La Mã Bến Tre trở thành trung tâm hành hương thứ ba của Giáo hội Việt Nam, sau Đức Mẹ La Vang và Đức Mẹ Trà Kiệu.
20. Đức Mẹ khóc được biểu lộ qua tượng Mẹ tại Syracuse – Nước Ý.
Một bức tượng Trái Tim Đức Mẹ đã khóc tại Syracuse thành Sicilia nước Ý. Mẹ đã khóc ròng rã suốt 5 ngày từ 28.8 đến 01.9.1953. Các nhà bác học đã phân chất nước mắt chảy ra từ tượng Đức Mẹ và đã công nhận chính xác là nước mắt người với đầy đủ các chất. Ngày 12.12.1954 Đ.G.M thành Sicilia, Hồng Y Ruffini đã công nhận tất cả những sự kiện xảy ra tại nơi tượng Đức Mẹ khóc ở Syracuse đều là những phép lạ. Trước khi được công nhận, ngày 17.10.1954 Đức Giáo Hoàng Pio XII đã giải thích những giọt nước mắt Đức Mẹ do Người buồn phiền vì tội lỗi nhân loại có thể làm tắt ân sủng. Nước mắt Mẹ cũng là những giọt lệ đợi chờ những nguời con đã bị kẻ thù là satan mê hoặc, quyến rũ. Đức Giáo Hoàng cũng kêu gọi: “Phần các con, các con hãy lấy gương sáng, việc lành, cộng tác với Đức Mẹ lôi kéo những đàn con lạc lõng trở về nhà Cha …”
21. Tượng Đức Mẹ khóc tại Akita Nhật Bổn.
Một tượng Đức Mẹ bằng gỗ, cao một mét, đứng trên địa cầu, hai bàn tay mở xòe ra. Tượng khi trước được tôn kính tại Nữ tu viện Tôi Tớ Thánh Thể ở Akita, thuộc giáo phận Đ. Cha Itô. Theo tài liệu Đ. Cha thu thập rồi gửi về Tòa Thánh, thì những sự lạ đã xảy ra như sau:
Tháng 6 năm 1973, chị Dòng Agnès Saragawa Katsutô được Chúa cho in một dấu đanh nơi bàn tay trái, cứ từ chiều thứ năm thì dấu đinh nơi bàn tay chị rướm máu và đau đớn cho tới chiều thứ bảy. Ngày 6.7.1974 trong lúc chị làm giờ đền tạ trước tượng Mẹ, thì có ánh sáng siêu nhiên chiếu vào chị từ tượng rồi chị thấy từ tay phải tượng Đức Mẹ máu bắt đầu chảy ra. Suốt hai năm, hiện tượng lạ này đã lôi cuốn và thu hút không chỉ các nữ tu khắp nơi, mà cả khách hành hương đổ về Akita rất đông. Ngày 29.9.1974, tượng chìm ngợp trong ánh sáng, và máu chảy ra ở chân, rồi khắp thân tượng như đổ mồ hôi và có hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Từ ngày 04.1.1075 Tượng bắt đầu chảy nước mắt. Hôm ấy Đức cha Itô đã tới chứng kiến, ngay lúc nước mắt tượng Mẹ chảy nhiều hơn. Trong suốt 6 năm 9 tháng tức từ 4.1.1975 tới 15.9.1981 tượng Đ. Mẹ đã khóc 101 lần, báo chí, truyền thanh và truyền hình cho biết có tới 115 triệu người Nhật đã được biết đến hiện tượng lạ lùng này! Sau khi đã đệ trình hồ sơ tài liệu lên Tòa Thánh, và cũng đã điều tra cẩn thận sau 11 năm, Đ. Cha Itô mới chính thức tuyên bố phép lạ Akita là có nguồn gốc siêu nhiên, và cho phép kính viếng.
22. Tượng Đức Mẹ khóc tại Caserta nước Ý.
Tại nhà bà Théresse Musco ở Caserta có một tượng Đức Mẹ tự nhiên vào lúc 12 giờ ngày thứ bảy 3.4.1076, người ta thấy máu thấm đỏ hai má, chảy trên mặt cho tới cổ. Cha Antonio và nhà thần học Gabrìel Roschini biết rõ hiện tượng này. Ngày 21.12.1978 ĐTC. Gioan Phaolo II (bây giờ Ngài đã là Thánh Giáo Hoàng) đã nói: “Khi Đức Mẹ chảy nước mắt pha máu là Mẹ có ý cho biết, Mẹ khóc vì nhiều thành, nhiều nước người ta đã phạm nhiều tội, mà lại không cầu nguyện, không hối cải, thì hình phạt sẽ đến với họ. Tiếng nói bằng máu và nước mắt của Mẹ là lời thỉnh cầu cuối cùng của tình yêu thất vọng, không được đáp lại. Biết bao người con ưu ái là các linh mục phản bội Chúa, gạt bỏ Mẹ ra khỏi trái tim họ. Nhưng Mẹ vẫn yêu thương họ, Mẹ ước chi vì thấy nước mắt Mẹ, mà họ ăn năn, hối cải”.
23. Tượng Đức Mẹ khóc tại Hoa Kỳ khi Tối Cao Pháp Viện phán quyết cho phá thai.
Đây là tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng xảy ra bên Hoa Kỳ. vào ngày 30 tháng 10 năm 1973, khi mà Tối Cao Pháp Viện phán quyết cho phá thai. Hậu quả tai hại của phán quyết này là không những cho phép, mà còn khuyến khích người ta liên tục giết chết hàng triệu triệu thai nhi Hoa Kỳ, mà thai nhi là gì? – Chính là các em bé trong lòng các bà mẹ. Một khi Hoa Kỳ là một nước văn minh nhất ban hành sắc luật này, thì sẽ có nhiều nước làm theo, và như thế thì từ nay số trẻ em sẽ bị mẹ mình giết sẽ không thể lường được! Đây là một trong những điểm đen trong văn hóa sự chết. Hôm ấy, đặc biệt là lần Đức Mẹ khóc tới ba lần, và người ta chụp được những giọt nước mắt của Đức Mẹ đang rơi rớt trên Chúa Hài Đồng. Cũng xin được nói thêm, trước đó vào ngày 01.10.1971 tượng này Đức Mẹ đã khóc một lần và trong nước mắt lại có cả máu nữa.
24. Tượng Đức Mẹ thánh du khóc tại HK và nhiều nước khác.
Đây là tượng Đức Mẹ Fatima Thánh Du đặc biệt, khác với pho tượng Fatima thánh du đầu tiên ở Âu Châu. Đây là tượng Đức Mẹ Thánh Du Bắc Mỹ và có mang tính lịch sử, vì mang ý nghĩa sứ giả của Huấn lệnh Fatima dành cho dân chúng Hoa Kỳ. Cha J.G.B người phụ trách bảo vệ tượng thánh du Bắc Mỹ cho biết: Tượng này đã khóc nhiều lần: Lần đầu tượng khóc tại Waterbury vào tháng 5.1970. vào các ngày 02.11.1970 và 12.9.1971 dịp trại giam Attica nổi loạn có 33 người chết. Tượng Đức Mẹ khóc các ngày 13.10.1971; 25 và 29 tháng 1 năm 72, rồi các ngày 14.6 và 03.7.1972. Riêng ngày 14.6.1972 là ngày tượng Đức Mẹ khóc khi trận bão Hurrican Agnès làm chết 118 người; lại có hai lần tại New Orléans; hai lần khác tại Atlanta đều vào tháng 7.1972, và lần cuối cùng tại Long Island vao thứ bảy, ngày 5.8.1972. Lần nào cũng được dân chúng chứng kiến và ghi nhận. Tổng cộng Đức Mẹ đã khóc từ 18 đến 20 lần. Các sự kiện được ghi chép tỉ mỉ trong cuốn “Giọt lệ máu” của Đức Mẹ Fatima. Như trên đã nói đây là tượng Đức Mẹ mang ý nghĩa sứ giả của Huấn lệnh Fatima. Huấn lệnh đó là: “Các con hãy ngưng phạm tội. Hãy trở lại với Con Mẹ. Các con hãy đến với Thánh Thể, và đền tạ Trái Tim Chúa. Nếu không, sẽ gặp những khốn khó lớn lao”. Sau những lần đó, tượng Đức Mẹ còn khóc trên 50 lần nữa tại các nơi: Washington D.C; Pittsburgh; Wheeling; Chicago; Atlanta v.v …
25. Tượng Đức Mẹ Hoa Hồng.
Tượng này có danh xưng như thế vì tượng Đức Mẹ có ba bông hồng gài trên ngực. Tượng khóc tại Thánh đường Thánh Gioan ở Chicago ngày 20.5. 1984, giữa lúc có đông người chứng kiến.
26. Tượng Đức Mẹ Nữ Vương Hoàn (Regina Mundi) Vũ khóc.
Tượng này của Enzo Alocci ở Porto San Stephano (gần Roma) ứa lệ 9 lần, ứa máu tới 18 lần từ năm1972 – 1977.
27. Tượng Đức Mẹ khóc tại Naju – Đại Hàn.
Hàn Quốc hay Triều Tiên (tên nước khi chưa phân cách) là một nước đạo Công giáo bị bách hại nặng trong suốt thế kỷ 19 như ở VN. Ngày 30.6.1985 trong buổi đọc kinh tối ở nhà ông bà Julio và Julia Kim, thì xảy ra việc tượng Đức Mẹ chảy nước mắt. Sau khi tránh ồn ào vì nhiều người tới hoặc xin ơn, hoặc hiếu kỳ, thì tượng được đưa tới nhà thờ gần đó. Tại đây, Đức Mẹ cũng đã làm nhiều phép lạ. đặc biệt là phép lạ mặt trời có hào quang sáng chói, bên cạnh mặt trời có hình Mình Thánh chúa.
Như đã nói ở trên, chúng tôi chỉ xin đưa ra một số sự kiện điển hình mà thôi. Trong thời đại này, những Sự lạ Đức Mẹ chảy nước mắt, hay làm nhiều điều khác nữa, xảy ra nhiều nơi trên thế giới, như tại Mariapoc ở Hungari, Nacosta ở Ý, tại Portsaid Ai cập, Mortsel thuộc nước Bỉ; Tại Lima, thủ đô nước Perou, ở Nam Mỹ v.v…
Trước khi kết thúc chương về Đức Mẹ, chúng tôi không thể bỏ qua một phép lạ vĩ đại nhất mà không ghi lại đây. Một sự kiện Đức Mẹ vừa hiện ra, vừa khóc nức nở, vừa công bố một Sứ điệp vô cùng quan trọng, mà theo lời Đức Mẹ còn là một sứ điệp với những mệnh lệnh nền tảng cho cả mệnh lệnh được ban hành ở Fatima năm 1917.
(còn tiếp)