CÁC SỨ ĐIỆP CỦA MẸ MARIA
01. Đức Mẹ hiện ra tại La-Vang – Việt Nam.
Vào một đêm của năm 1798, những người dân Công giáo thuộc các làng Cổ Vưu và Thạch hãn đang lần hạt thì Đức Mẹ hiện đến với họ trên tay bồng Chúa Hài Đồng. Người ta kể: “Bà rất đẹp, đứng dưới gốc cây đa cổ thụ. Bên cạnh Bà có hai thiên thần cầm đèn chầu”. Thời bấy giờ người dân đang sống dưới triều vua Quang Toản, con trai vua Quang Trung. Vì là thời kỳ Công giáo bị bách hại, nên người tín hữu thường hay trốn vào khu rừng Lá Vằng – Một nơi được coi là rừng thiêng, nước độc và nhiều thú dữ – Cách xa Quảng Trị chừng 5km về hướng Tây – nên quan quân không có đi vào kiểm soát. Về sau dân tụ lại đông mới thành phường La Vang là tiếng nói trại của từ lá vằng. Đức Mẹ bảo họ là Mẹ biết và hiểu họ đang sống trong sự lo sợ và đau khổ không khác gì giáo hội buổi sơ khai, nhưng Mẹ sẽ luôn ở bên họ. Mẹ còn bảo “Các con Tin và phó thác vào Đức Giêsu Kitô con Mẹ, thì các con sẽ có chỗ trên Thiên Đàng Chúa dành cho các con”, rồi Người còn dạy lấy cây Lá Vằng sắc lấy nước uống thì các bệnh sẽ được chữa khỏi. Đức Mẹ còn hiện ra với họ nhiều lần sau nữa.
Dưới triều vua Minh mạng, sự cấm đạo còn nghiệt ngã hơn nữa! nên giáo dân lại càng lui tới thường xuyên hơn với khu rừng Lá Vằng này. Những làng bên lương cũng vào phá rừng làm rẫy rồi họ xây chùa, rước Phật và các thần linh về cúng vái. Chùa xây thì lớn, nhưng thần linh không ở được. Các viên chức xây chùa thuộc các làng Cổ Thành, Ba Trừ và Thạch Hãn họp dân lại tổ chức bảy ngày cúng tế, thì bảy đêm họ đều mộng thấy các thần linh về bảo phải rời chùa đi nơi khác, vì đất này là của Đức Bà người Công giáo thường xuyên ở cùng họ, nên các thần không ở được! Cửa chùa mặc dù đóng khóa rất kỹ, mà sáng nào các chức săc vô chùa cũng thấy các tượng và hương án bị đổ vỡ. Ngày này sang tháng nọ, hiện tượng bất ổn trong chùa cứ xảy ra hoài, các chức sắc cuối cùng họp nhau lại họ trao đổi với nhau về các giấc mơ thì thấy ai cũng mộng thấy thần linh bảo vậy, nên sau khi đã bàn bạc kỹ lưỡng thì họ quyết định mời người Công giáo lại rồi cúng luôn chùa này cho bên người Công giáo. Các tín hữu liền báo cho cha xứ làng Cổ Vưu hay, cha xứ bèn đổi ngôi chùa thành một nhà thờ nhỏ tôn kính Đức Mẹ. Cũng tại nơi đây, Mẹ đã ban rất nhiều ơn lạ không chỉ cho giáo hữu, mà ngay cả những người bên lương nghe đồn mà tới kêu xin Mẹ điều gì, Mẹ đều ban cho cả! Nhờ thế mà giáo dân ngày một đông. Sau nhà thờ từ một ngôi chùa được xây cất lại thành một Thánh đường khang trang rộng lớn. Các Đức Giám Mục thuộc giáo phận Huế đã cho điều tra và thu tích các dử kiện thấy niềm tin của giáo dân vào Đức Mẹ quả có nhiều thành tích đáng tin cậy, nên các ngài chấp nhận và cho phép giáo dân đặc biệt kính viếng Đức Mẹ La Vang. Ngày nay Giáo Hội Việt Nam xây cất một Vương Cung Thánh Đường lớn để tỏ lòng biết ơn và tôn kính Mẹ La Vang, cứ ba năm giáo hội lại tổ chức một Đại Hội Thánh Mẫu tại nơi này, để giáo dân cả nước tỏ lòng Kính mến và tôn sùng Đức Mẹ cách đặc biệt. Có thể nói Đức Mẹ La Vang cũng là Đức Mẹ phù hộ và che chở các giáo hữu.
02. Đức Mẹ hiện ra tại La Salette – nước Pháp.
Ngày 19.9.1846 Đức Mẹ hiện ra trên đỉnh núi La Salette với hai em chăn chiên tên là Mélanie và Maximin. Mẹ đã nói trong nhừng giòng nước mắt: “Khốn cho nhân loại, Chúa sắp nổi cơn giận dữ, giáng xuống trần gian bao nhiêu tai họa. Chúa ruồng bỏ loài người, và đổ hình phạt liên tiếp xuống trong 35 năm”. Mélanie đã tiết lộ trước khi qua đời: “Từ khi Đ. Mẹ hiện ra đến lúc biến đi, Đ. Mẹ khóc nức nở. Những giọt lệ từ gò má lăn xuống lấp lánh như những viên ngọc. Đ. Mẹ nói những lời tha thiết là mong các con cái Mẹ biết sống cầu nguyện, thánh hóa các ngày lễ trọng cùng các ngày Chủ nhật. Mẹ cũng kêu gọi những người tội lỗi hãy ăn năn đền tội, và mau mau trở lại với Chúa. (Chú thích: Ở đây tác giả tóm tắt với mục đích sắp theo thứ tự thời gian. Sau này có dịp tác giả sẽ nói lại, vì khi hiện ra ở La Salette, Mẹ có trao cho nhân loại một sứ điệp vô cùng quan trọng).
03. Lần Mẹ đến Lộ Đức (Lourdes – Nước Pháp).
Tại đây Đức Mẹ hiện ra với chị Thánh Bernadette. Năm ấy chị Thánh mới14 tuổi, vào ngày 11. 2. 1858 trong lúc chị đang đi kiếm củi ở bên giòng sông Gave chảy qua Lộ Đức. Từ đó nhìn lên bên trên sườn núi, có hang Massabielle. Chính tại cửa hang này, Bernadette đã bắt gặp Đức Mẹ. Theo lời chị Thánh kể lại: “Bà đẹp lắm! và trẻ như một thiếu nữ 18. Tôi chưa từng thấy có người nữ nào xinh đến thế! Bà vận áo dài trắng, thắt lưng xanh. Tay cầm tràng hạt. Bà để chân trần, nhưng tôi nhìn thấy trên bàn chân có mấy bông hồng trông rất thanh nhã”. Đức Mẹ hiện ra với chị Thánh Bernadette 18 lần cả thảy. Những lần đầu, tuy chị có hỏi danh tánh Người, nhưng thay vì trả lời, Bà chỉ mỉm cười, cho đến ngày 25 tháng 3 thì Bà mới tuyên bố: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Tội”. Điều đó nói lên việc Đức Mẹ không những không vướng mắc tội tổ tông ngay từ trong bản chất, mà Mẹ cũng không nhiễm bất cứ tội lỗi nào trong suốt cuộc sống, và điều này bác bỏ dứt khoát luận điệu của những người cho rằng Đức Mẹ “không còn đồng trinh” sau khi đã sinh Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng nên biết rằng sau khi Chúa Giêsu về trời, thì Chúa Thánh Thần hoạt động trong lòng giáo hội, nên Hội Thánh đã tuyên bố tín điều “Đức Mẹ vô nhiễm tội” trước đó 4 năm, tức năm 1854, nhưng có nhiều phe phái phản giáo, chống đối kịch liệt, và có lẽ vì thế, Mẹ hiện ra với chị Thánh Bernadette, để bảo đảm cho việc làm của Giáo hội, cũng như chỉ bằng vào một lời minh xác của Đức mẹ làm cho tất cả những ai còn nghi ngờ phải im tiếng!
(Chú thích: Vài hàng tóm lược tiểu sử chị Thánh Bernadette – Nhân chứng đặc biệt – cho sự kiện Lộ Đức. Chị Thánh tên thực là Bernadette Soubirous, một cô bé chăn chiên, nghèo nàn, thất học, nhưng đã được Đức Mẹ chọn để phổ biến một Sứ điệp rất quan trọng về đức tin. Năm chị 23 tuổi thì vào tu dòng Bác Ái ở Nevers, và đổi tên là “Soeur Marie Bernard”. Chị chết thánh thiện ngày 16.4.1879 khi đó chị được 36 tuổi. Đức GH Pio XI đã phong Thánh cho Chị năm 1933).
04. Mẹ hiện ra với nữ tu Berthe Petit.
Ngày 07.2.1910 Nữ tu Berthe Petit được nhìn thấy Trái Tim Đức Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ hợp nhất với nhau và bên trên có hình chim bồ câu tức Chúa Thánh thần, cũng khi đó, chị nghe được tiếng Chúa phán: “Con hãy kính nhớ Trái Tim Mẹ Cha như đã kính nhớ Trái Tim Cha. Con phải hiến dâng mình cho Trái Tim Mẹ như đã hiến dâng cho Trái Tim Cha, và truyền bá lòng yêu mến Trái Tim Mẹ”. Ngày 30.3.1911 Đ.G.H ban 100 ngày ân xá cho những ai đọc câu: “Lậy rất Thánh Trái Tim đau khổ và vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con là kẻ đang chạy đến cùng Mẹ”. Đây chính là câu Chúa Giêsu đã dạy chị Berthe Petit phải đọc khi cầu nguyện với Trái Tim Đức Mẹ. Chị Berthe Petit là một nữ tu tại gia, sinh tại Enghien nước Bỉ (Belgium), năm 1870 và mất năm 1943. Chị thường xuyên được Chúa và Đức Mẹ hiện ra. Ngay cả khi mới được 4 tuổi, Đức Mẹ đã hiện ra cùng với Chúa Hài Đồng và tiên báo: “Con sẽ phải đau đớn trọn đời, nhưng Chúa Giêsu sẽ ở với con”. Lớn lên chị muốn vào dòng tu, nhưng không được, nên chị chấp nhận sống độc thân tại gia, dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Cả cuộc đời chị dệt bằng tấm vải thô, và toàn bằng đau khổ, nhưng chị can đảm chịu đựng. Chúa đã dùng chị làm trung gian truyền bá lòng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ.
05. Mẹ hiện ra ở Fatima – Nước Bồ Đào Nha
Đệ Nhất thế chiến diễn ra từ ngày 28 tháng 7 năm 1914 là một trong những cuộc chiến tranh quyết liệt, quy mô to lớn nhất trong lịch sử nhân loại kể từ đó trở về trước. Đây là cuộc chiến tranh bao trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào vòng chiến với số tử vong trên 19 triệu người, sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất lẫn tinh thần cho nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc chiến tranh trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở hậu phương. Phụ nữ phải làm việc thay nam giới, đồng thời sự phát triển của kỹ nghệ cũng có ảnh hưởng đến tính chất của cuộc chiến tranh. Lịch sử có thể đánh dấu về sự hiệu quả của không quân và xe tăng kể từ cuộc Đại chiến Thế giới này. Chính vì sự tàn khốc của nó, Đức Mẹ đã phải đến Thế gian. Nhưng đó cũng chưa phải là lý do chính. Lý do chính theo lời Đức Mẹ nói là vì: “Chúa đã bị xúc phạm quá nhiều. Chớ gì người ta đừng làm mất lòng Chúa nữa”. Nguyên nhân phát sinh ra các nếp sống tội lỗi phát xuất từ nền văn minh mới: Văn minh cơ khí và sự phát triển công kỹ nghệ. Khi nền văn minh đem lại cho con người nhiều tiện nghi trong cuộc sống, thì cũng đồng thời nó đem lại cho người ta những mặt tiêu cực, tức phát sinh ra nhiều tội lỗi hơn! Máy bay, tàu bè và các phát minh từ cơ khí thúc đẩy lòng tham và tính kiêu căng là động lực để dân tộc này đi chinh phạt dân tộc kia; nước này xâm lăng nước khác. Sự giàu có cũng bùng phát lên nơi các quốc gia chiếm được lợi ích của nền văn minh, và nhiều thứ tội lỗi, nếp sống trụy lạc từ đó lan tràn ra khắp nơi trên thế giới, nhưng nhất là ở các quốc gia Âu châu. Một vùng đất chỉ mới là thuộc địa của Pháp như Sàigòn, hoặc còn là một xứ thuộc quyền bảo hộ như Hà-nội – còn rất xa với văn minh Tây phương, nhưng chỉ mới tiếp giáp trong một thời gian ngắn, cũng đã nhiễm ngay thói ăn chơi kiểu mới, đó là các khách sạn, phòng ngủ, với các khiêu vũ trường. Tại Hà-nội, những nhà hát cô đầu ở phố Khâm Thiên, biểu tượng cho thú ăn chơi của nền văn minh nông nghiệp, đã nhanh chóng trở nên lỗi thời, khi thành phố bị cuốn hút bằng các hộp đêm, phòng trà, khiêu vũ trường … là những mốt giải trí mới du nhập từ nền văn minh cơ khí.
Chính trong thời điểm đó, Đức Mẹ đã đến trong hành tinh của chúng ta. Một ngày đẹp trời tại một ngôi làng nhỏ bé và nghèo nàn có tên là Fatima, thuộc nước Bồ Đào Nha (Portuguese). Nơi thung lũng Cova Iria có ba trẻ nhỏ đang chăn chiên: Một trai và hai gái. Bé gái lớn nhất là Lucia 10 tuổi con của ông bà Antonio; cậu Phanxico 9 tuổi và đứa em gái cậu là Giaxinta 7 tuổi, hai em này là con của ông bà Emmenuel Pierre Marto. Các em là những đứa bé đơn sơ, chất phác và có tâm hồn đạo đức. Tuy đi chăn chiên, nhưng mỗi ngày các em vẫn họp nhau lại một chỗ để lần hạt, khiến Thiên thần của Chúa đã từng hiện ra với các em, dạy các em cầu nguyện, hãm mình đền tạ thay cho người ta đã xúc phạm đến Trái Tim Chúa và Mẹ Maria. Đến lần hiện ra thứ Tư trước khi Đức Mẹ đến với các em, thì Thiên thần cho các em rước Mình Thánh, Máu Thánh Chúa Giêsu.
Hôm nay, vào lúc giữa trưa như thường lệ, ba trẻ gặp gỡ nhau để cầu nguyện, thì Đức Mẹ hiện ra với các em. Theo lời kể lại của các em, Mẹ rất đẹp – Một nét đẹp dịu dàng và hiền từ – Mẹ luôn mỉm cười và vì là buổi đầu tiên Mẹ tới với ba em, nên Đức mẹ đã hẹn với các em là Mẹ sẽ tới với các em nhiều lần nữa vào các ngày 13 mỗi tháng. Sau này, tính lại thì các em được gặp Đức Mẹ 6 lần tất cả, tức từ ngày 13 tháng 5 năm 1917 tới ngày 13 tháng 10 năm đó.
– Lần thứ nhất: Mẹ gửi cho nhân loại qua ba trẻ ở Fatima Thông Điệp “Các con hãy Tận hiến cho Trái Tim Chúa và Mẹ, để sẵn sàng chịu mọi đau khổ. (Ghi chú: Chúng ta nhớ rằng năm đó chiến tranh thế giới đang ở vào cao điểm của sự khốc liệt).
– Lần thứ nhì: Mẹ dạy các em lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày và khuyên nhủ mọi người hãy học hỏi, tìm hiểu về Đức Me thật nhiều, để biết và yêu mến Đức Mẹ.
– Lần thứ ba: Đức Mẹ cho các em thấy Hỏa Ngục kinh khủng như thế nào, và từng phút, từng giây có những linh hồn bị sa hỏa ngục. Mẹ bảo: “Muốn cứu các LH, Thiên Chúa muốn người ta hãy thành kính tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ. Nếu người ta thi hành điều này, thì chiến tranh sẽ chấm dứt, và hòa bình sẽ đến! Nhưng nếu người ta cứ tiếp tục phạm tôi nhiều, thì chiến tranh tái diễn và sẽ tàn khốc hơn. Đói khát sẽ lan tràn, Giáo Hội bị bách hại”.
(Ghi chú: Tất cả nhửng điều Đức Mẹ loan báo trong lần này đều lần lượt diễn ra. Thứ nhất: Đại chiến thế giới thứ nhất chỉ sau năm đó là kết thúc vào ngày 11.11. 1918. Nhưng rồi một cuộc chiến tranh khác lại manh nha. Tháng 2/1917, Cách mạng Vô sản bùng nổ với các cuộc biểu tình lớn, bãi công tập thể, tiêu biểu như cuộc biểu tình của 90.000 nữ công nhân từ 50 xí nghiệp tại Petrograd, thủ đô của Đế quốc Nga (sau là Saint Petersburg). Phong trào nhanh chóng chuyển từ tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang. Chế độ Sa hoàng bị lật đổ. Theo lời kêu gọi của đảng Bolshevik, công nhân và binh lính đã thành lập các Xô viết đại biểu. Cuộc cách mạng vô sản Ngày 24/10/1917, bắt đầu với sự lãnh đạo trực tiếp của Vladimir Lenin. Cận vệ Đỏ, và lực lượng vũ trang tấn công Cung điện Mùa Đông, đêm 25/10/1917, chính quyền Xô viết được thành lập lấy tên nuớc là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô Viết. Khởi đầu một cuộc chiến tranh lạnh giửa hai ý thức hệ Tư bản và Cộng sản kéo dài suốt 70 năm. Phân nửa thế giới loài người sống trong chiến tranh, đói khát, tù đày và chết chóc, trong đó có Việt Nam. Chưa kể một cuộc Đại chiến Thế giới khác lồng vào giữa trong một khoảng cách từ 1939 – 1945 giữa phe Trục gồm Đức – Ý – Nhật với các nước Đồng Minh Tây phương. Chỉ trong vòng vài năm, cuộc chiến này đã làn tràn khắp vùng trời Ấu châu sang Á châu, sát hại trên dưới 7chục triệu sinh linh. Tất cả đều đã xảy ra như Lời Đức Mẹ cảnh báo ở Fatima rằng: “nếu người ta cứ tiếp tục phạm tội, chiến tranh sẽ tái diễn và sẽ tàn khốc hơn nhiều. Đói khát sẽ lan tràn, Giáo Hội bị bách hại”. Quả vậy! sau Thế chiến thứ hai Cộng Sản đồng nghĩa với vô thần, là một kế hoạch trong tiến trình chống lại Thiên Chúa của “con rắn xưa”. Phân nửa thế giới nằm trong bàn tay sắt thép của một chế độ độc tài, dữ dằn và kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay. Bởi thế Giáo Hội trong các nước bên trong bức màn sắt bị các nhà nước CS tước đoạt các quyền sinh hoạt tôn giáo, lẫn các cơ sở xây dựng toàn diện các mặt văn hóa, giáo dục và xã hội. Đây là thời kỳ từ “Giáo Hội Thầm lặng” được khai sinh trong nhiều nước Xả hội chủ nghĩa).
– Lần thứ tư (cũng vào khoảng 12 giờ trưa ngày 13.8.1917): Lần này, ba em nhỏ đang bị nhà chức trách địa phương bắt giam để điều tra, nên các em không thể gặp lại Đức Mẹ. Tuy nhiên, nhiều người nghe các em nói và biết là ngày giờ Đức Mẹ hiện ra, nên họ cũng vẫn kéo nhau tới thung lũng Cova Iria. Mọi người chỉ được nhìn thấy một cụm mây từ trên cao đáp xuống từ từ trên ngọn cây sồi, là vị trí Mẹ hiện ra với ba trẻ nhỏ những lần trước. Tới Chủ Nhật, 19.8.1917 thì Mẹ gặp lại ba em tại thung lũng Valinhos. Mẹ yêu cầu các em tiếp tục siêng năng lần hạt Mân côi, và thông điệp lần này là: “Các con hãy siêng năng cầu nguyện cho những kẻ có tội và các LH trong luyện ngục”. (Chú thích: Những điều Mẹ nói với các em, cũng là những điều Mẹ nhắn gửi cho tât cả mọi người).
– Lần thứ năm: Tại Cova da Iria, các nhà báo và các ký giả ước lượng có tới sáu chục ngàn người từ các nơi đổ về. Mẹ vẫn yêu cầu người ta tiếp tục siêng năng lần hạt, để có được hòa bình. Lần này Mẹ chấp nhận lấy Fatima làm Trung tâm Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ của cả thế giới.
– Lần thứ sáu và cũng là lần cuối cùng (nhằm lúc 12 giờ trưa ngày 13.10.1917): Trước 100 ngàn người, Đức Mẹ đã hiện ra và nói truyện với ba trẻ nhỏ. Mẹ kêu gọi “những người có tội cần phải tự cải hóa, và ăn năn xám hối, vì người ta đã xúc phạm tới Chúa quá nhiều”. Lần này Mẹ trả lời câu hỏi của Lucia, và tuyên xưng: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi và Ta kêu gọi nhân loại hãy siêng năng lần hạt Mân Côi”. Các em thấy người ta tới đông qúa, mà không được nhìn thấy Mẹ, thì xin Đức Mẹ cho họ được xem một phép lạ tỏ tường, thì được Đức Mẹ chấp nhận. Mẹ liền cho mọi người trông thấy “Mặt trời nhảy múa” – Xoay tròn như bánh xe lửa, và từ khối mặt trời đỏ rực, tung ra những luồng ánh sáng đủ màu sắc, khiến cho mọi người có mặt đều khiếp sợ, vì họ tưởng chừng mặt trời sắp sa sầm xuống đất. Ai nấy đều quỳ xuống khóc lóc, ăn năn tội. Cả một bãi đất rộng lúc sáng mưa nước ướt đọng, bây giờ bỗng chốc khô ráo lạ lùng! Các nhà văn, nhà báo, các phe phái chống giáo hội, trước đến vì không tin với mục đích sẽ là nhân chứng tố cáo sự lường gạt, phỉnh phờ, thì bây giờ ai nấy đều im hơi lặng tiếng, suy nghĩ và ăn năn trở lại. Lãnh đạo chính phủ Bồ Đào Nha khi ấy là bè “Nhiệm” (franc-maçon – hay còn gọi là Hội Kín Tam Điểm), họ đang tìm cách tiêu diệt đạo Công giáo, thì nay sau biến cố Fatima, chính quyền đã ăn năn trở lại, đồng thời phối hợp với Giáo hội tổ chức rước tượng Đức Mẹ từ Fatima về Lisbone, thủ đô Portuguese.
(Ghi chú: Trong sáu lần Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, lần thứ ba ngày 13.7.1917 là lần Đức Mẹ gửi cho nhân loại một Thông Điệp Đặc biệt nhất, mà Giáo hội gọi là Thông điệp Fatima. Chúng tôi xin tóm gọn như sau: Thiên Chúa muốn lập phong trào thành kính Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, để nhiều LH được cứu rỗi. Chiến tranh sẽ kết thúc. Nếu sau này người ta tiếp tục sống tội lỗi, thì chiến tranh sẽ tàn khốc hơn. Đức Mẹ cũng yêu cầu nhân loại dâng nước Nga cho Trái Tim Mẹ, thì Mẹ hứa sẽ làm cho nước Nga trở lại. Nhiều người sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ phải chịu muôn vàn đau xót; Nhiều nước sẽ bị tiêu diệt … Nhưng sau cùng Trái Tim Mẹ sẽ thắng. Mẹ cũng yêu cầu người ta mỗi khi lần chuỗi Mân côi, thì sau mỗi chục kinh hãy đọc kinh Mẹ dạy sau đây để cầu cho các LH, kinh đó là: “Lậy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đưa các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn”. Mẹ muốn mọi người hãy dâng mình cho Đức Mẹ, và rước lể các ngày thứ bảy đầu tháng. 3 điểm cần nhớ của Thông điệp Fatima: Xám hối – Tôn sùng Mẫu Tâm – siêng năng Lần hạt Mân côi). (Chú thích: Hưởng ứng Lời kêu gọi của Đức Mẹ, các Đức G.H. sau đó đều tổ chức những ngày dâng nước Nga cho Đức Mẹ, và quả thực, Mẹ đã làm cho nước Nga trở lại. Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết, đã chính thức chấm dứt ngày 26 tháng 12 năm 1991 Một ngày trước đó, 25 tháng 12 năm 1991, tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đã từ chức và bàn giao mật mã kích hoạt tên lửa hạt nhân của Xô Viết cho tổng thống Nga Boris Yeltsin. Vào lúc 7:32 tối cùng ngày, quốc kỳ Liên Xô đã được hạ xuống từ điện Kremlin và thay thế bằng quốc kỳ Nga. Một sự thay đổi lớn lao không tiếng súng. Đó là việc làm của Đức Mẹ).
06. Khi Mẹ hiện ra tại Beauraing – Nước Bỉ (Belgium).
Lần này Mẹ đã hiện ra với 5 trẻ làng Beauraing bên nước Bỉ, một làng cách xa thủ đô Bruxelles 110 cây số. Năm em bé có tên là Fernande, Gilberte, Albert Voisin, Andrée và Gilberte Degeimbre. Mẹ hiện ra với các em tất cả là 33 lần kể từ ngày 29.11.1932 đến ngày 03. 01. 1933, dưới một cây Sơn Trà (Aubépine), trước cửa một nữ tu viện, trong ánh sáng và áo dài ửng lên màu xanh nước biển. Đặc biệt các em được thấy “Trái Tim vàng” của Mẹ là Trái tim biểu hiện sự chiến thắng thế gian. Qua các em, Mẹ nài xin người ta cầu nguyện và Mẹ hứa sẽ làm cho nhiều kẻ có tội ăn năn trở lại. Sau nhiều cuộc điều tra, ngày 02. 02. 1943 Giám Mục giáo phận Namur chính thức công nhận và ban phép tôn kính Đức Nữ đồng trinh có Trái Tim Vàng. Ngày 07. 12. 1943 Tòa Thánh tuyên bố chấp nhận các sự kiện Beauraing là có thật. Trong số các lần Đức Mẹ hiện ra, có lần số người hiện diện lên tới hai chục ngàn người. Họ cầu nguyện và lần hạt sốt sáng. Nhiều người tàn tật, hoặc mù được Đức Mẹ chữa lành.
07. Đức Mẹ khóc báo trước thảm họa của Thế chiến thứ II.
Cuốn sách “Le Monde en feu” đã kể lại câu chuyện Đức Mẹ hiện ra với nữ tu Nacosta người Ý, vào một buổi chiều trong giờ chầu Thánh Thể ngày 18.10.1933. Chị Nacosta đã kể lại: “Tôi đã nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra ngay trước mặt, Mẹ mặc áo choàng có lúp đội, trắng như tuyết. Nét mặt rất buồn, đôi mắt Mẹ đẫm lệ, những giọt nước mắt Mẹ lã chã rơi xuống ướt đẫm cả một khoảng đất nơi Người đứng. Tôi rất bỡ ngỡ hỏi: “Thưa Mẹ, sao Mẹ khóc?”. Tôi nghe rõ tiếng Mẹ thở dài và Người bảo: “Hỡi con, Mẹ khóc vì sự khốn khó đã gần đến rồi. Chúa Giêsu giận lắm! Chúa nói nhân loại cần phải phạt. Mẹ không thể can ngăn được nữa! Lòng Mẹ đau đớn vì thấy những tai họa đổ xuống, và một số những người lành phải chịu lây …”. Dứt lời Mẹ gạt nước mắt rồi biến đi. Tôi lại thấy Chúa Giêsu vác Thánh Giá, đầu đội mạo gai, mặc chiếc áo đỏ rách tả tơi nhìn thấy cả những vết thương loang lổ khắp châu thân. Tôi lại thấy các Thiên thần mặc áo xanh, cầm kiếm sáng vung lên, khua xuống lóng lánh, cho tôi biết là các ngài muốn đánh phạt. Chúa cũng nói với tôi rằng: “Cha đã đợi và vẫn còn đợi nhân loại cải tà quy chính, mặc dầu hình phạt thì đã sẵn sàng rồi, nhưng nếu Cha không phạt, thì ra như Cha bất công, vì loài người đắm chìm trong tội lỗi nhơ bẩn, càng ngày càng tệ hơn …”.
Năm năm sau, vào một buổi sáng mùa đông, sau khi rước lễ, Nacosta kể chị lại được Đức Mẹ hiện ra, lần này vẫn nước mắt chăn hòa, Mẹ bảo tôi: “Hỡi con, Mẹ không còn giữ tay Chúa lại lâu hơn được nữa! Người nhất định phạt! Nhân loại sẽ tắm máu. Mẹ cho con biết, không phải Mẹ chỉ nói với con, Mẹ đã nói cho cả Đức Giáo Hoàng. Mẹ cũng nói cho Tông đồ Thánh Tâm Chúa là cha Me-tê-ô và nhiều linh hồn khác nữa, nhưng người ta không nghe lời Mẹ, trừ một số ít. Hình phạt chỉ còn buộc trên đầu sợi chỉ. (Scerdos p. 584) Rôì như chúng ta đã biết, chỉ vài tháng sau tức năm 1939 Đại chiến Thế giới thứ II đã diễn ra vô cùng khốc liệt
(Ghi Chú: Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị đánh bom hàng loạt. Khoảng 70 triệu người đã bị chết do cuộc chiến này (con số thương vong vẫn tiếp tục được nghiên cứu), kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc xã (Holocaust). Trong số thương vong, 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. 10 triệu trẻ mồ côi không cha, không mẹ và không nhà). (Chú thích: Trong lúc hiện ra với chị Nacosta, Chúa có nói: “nếu Cha không phạt, thì ra như Cha bất công, vì loài người đắm chìm trong tội lỗi nhơ bẩn, càng ngày càng tệ hơn”. Trong Tin Mừng Chúa từng nói, hoặc thẳng thắn biểu lộ về sự công thẳng của Ngài đối với các dân tội lỗi: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khô-ra-din! Khốn cho các ngươi, hởi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi, mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng xám hối. Vì thế Ta nói cho các ngươi hay: Đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đôn sẽ đuợc xử khoan hồng hơn các ngươi. Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phac-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!” (Mt 11,21-23); hoặc: “Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon; mà đây thì còn hơn vua Salomon nữa” (Lc 11,30-31). Cho nên, đừng ai ỷ-i vung miệng nói “Lòng thương xót Chúa vô biên”, để rồi cứ nhởn nhơ, bình chân như vại trên đống tội lỗi. (Còn tiếp)