1. Nước Việt Nam khi nào sẽ có sự đổi thay?

– (Tâm): Hôm trưóc cô Thủy có bật mí cho biết. Nước VN ta sẽ thay đổi toàn diện. Người lành sẽ thế kẻ ác cai trị dân. Vậy chyện này còn bao lâu nữa sẽ trở thành hiện thực, vì sau chuyến về VN, tôi thấy người dân trong nước, ai cũng mong muốn sớm được thay đổi cho đỡ khổ?

– Chú cứ chờ đi! Chúa bảo gần, nhưng không có nói năm tháng, ngày giờ! Cháu chỉ nói ngoài vòng là khi nào Chúa thấy dân Chúa bị bức hại nhiều, khi ấy Chúa sẽ ra tay.

– Bây giờ họ cởi mở hơn thời “Bao cấp” (từ trong nước) nghĩa là tương đối dân cũng dễ thở hơn, như vậy thì chắc là Chúa lại nương tay cho họ?

– (Cô Thủy): Như thế thì dân cũng đã sướng hơn trước, ngoại trừ những gia đình bị đấu tố, bị để ý, bị xem là có tội đối với chế độ; Những gia đình cha, chồng, hay con trai bị đi “cải tạo”, những tù nhân chính tri. Còn gọi là tù nhân Lương Tâm v.v… thì chú biết không, vẫn có những kẻ nói phải cám ơn họ, vì nhờ họ ta mới được đi, và đi khắp thế giới. Chú nghĩ họ đúng hay sai?

– Tất nhiên là những người ấy sai! Ngay ở nước Uc này thôi, có một số người nam có, nữ có, đa số họ là những thanh niên trạc tuổi các con tôi, tính đến nay (2005) chỉ trên dưới 30 tuổi, họ không biết cái thời bao cấp ông bà, cha mẹ họ cực khổ như thế nào, hoặc sang đây sung sướng quen, đã quên mất cái thời cực khổ lúc còn nhỏ! Bây giờ họ cầm tiền đô về VN chơi, muốn ăn sài kiểu gì cũng đều thoải mái cả! VN sau WTO các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng v.v… nhờ sự ra vào của các Công Ty ngoại quốc, nên bộ mặt thành phố đã thay đổi nhiều, nhưng đó mới chính là cái từ Việt Cộng ngày xưa dùng là “Phồn Vinh Giả tạo”, do những nhà “Tư bản đỏ” tạo ra, vì qua bao năm, những đặc quyền, đặc lợi đều nằm trong tay những người này. Càng là những đảng viên CS cỡ lớn, càng là những tay tư bản “Sụ”. Những kẻ vô ý thức như cô vừa nói, đều là những người chỉ biết nhìn những hào quang trên những đống vật chất sở hữu của đồng tiền, chứ không có cái nhìn của bộ não (tri thức), nên không thấy được hai mặt của một quê hương là: Sự khó khăn và đói khổ của 80% dân nước là những thành phần nông dân và lao động. Mặt kia là đà phá sản đang tuột dốc của một quốc gia vô phương cứu vãn, mà bọn đặc quyền đặc lợi thì thay phiên nhau vơ vét cho đầy túi tham, đến nỗi mạnh tên nào, tên nấy bán hết tài sản của Tổ Quốc như: Đất đai, biển đảo vào tay kẻ dữ!

– Vì thế cháu mới nói họ chỉ cởi mở cho những thành phần không bị đau khổ, nhưng như cháu vừa nói thì trong dân cũng có nhiều thành phần vui lắm!

– Cô nói cũng trúng! Ngoài cái thành phần trẻ mà tôi vừa nói với cô, dĩ nhiên cũng có những người trẻ có hiểu biết thì họ không như vậy! Nhưng đáng trách hơn là lại có những thành phần cha, anh của những người trẻ, vượt biên qua đây cũng có, mà đi nhờ con cái bảo lãnh cũng có, một là họ thuộc loại người qua sông quên đò, hai là mục đích trên hết chỉ là vấn đề kinh tế. vốn dĩ họ dù sống ở thời nào, thì cũng chẳng có lý tưởng! Bây giờ giải quyết được vấn đề kinh tế là xong! Hễ có ăn là vui! ở trong nước cũng có những người như vậy!

– (B. Quý): Nếu thế thì làm sao mà Chúa thay nó! Hồi nãy con nói là khi nào Chúa thấy dân Chúa bị bức hại nhiều, khi ấy Chúa mới ra tay?

– Con nghĩ là sẽ phải đổ thôi! Vì họ đã chạm tới Lòng Chúa Thương Xót, bằng những tội phạm họ đã làm như: Khiến cho nhiều gia đình, nhiều người phải đau khổ, mà họ thì sung sướng cách thừa thãi. Con cái họ vì dư tiền của nên sống trong tội lỗi, trụy lạc. Bản thân họ cũng vậy, lo nhiều cho cái đẹp của thể xác đó là vợ, chồng thì ngoại tình, đàng điếm, trong khi phá bỏ tất cả luân lý, đạo đức. Tôn giáo giúp họ duy trì tinh thần và xây dựng xã hội kỷ cương, thì họ dùng đủ mọi cách để diệt, hoặc trói tay, bịt miệng những người lãnh đạo các tôn giáo. Tịch thu hết các cơ sở giáo dục. Dùng tiền, và quyền thế để ép người ta đi đến chỗ bỏ chết thai nhi. Lạm dụng thời thế để mua bán, xuất khẩu phụ nữ! Mẹ nghĩ đi, tội lỗi ngập trời như vậy! Xúc phạm đến Chúa như thế! Làm sao mà thoát khỏi bàn tay Chúa? Chỉ có điều là Bản Tính Thiên Chúa là chậm bất bình, và muốn kéo dài thời gian để cho họ nhìn thấy được tội ác họ đã làm, mà quay về đường ngay, nẻo chính trước đã, rồi mới khiến cho họ ăn năn và hối hận về những việc họ làm! Nhưng chú, cô, mẹ cháu vững tin đi! Chúa cũng chỉ để cho họ có giới hạn!

Phụ chú: Rất nhiều báo chí đã mô tả thời Bao cấp. Sau đây là những đoạn văn tiêu biểu đã đăng trên báo Đại Kỷ Nguyên: Bao cấp là tất cả đều do nhà nước đứng ra bao hết, từ cây kim, sợi chỉ, que diêm cho đến lương thực hằng ngày… Lương hàng tháng của công chức nhà nước chỉ nhận được một phần tiền rất nhỏ, còn lại quy vào hiện vật thông qua chế độ cấp phát tem phiếu và sổ gạo.

Tất cả mọi hình thức kinh doanh đều được quản lý theo ‘mô hình xã hội chủ nghĩa’, hoàn toàn do nhà nước nắm giữ.

Nhà nước phân phối vài chục mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống như gạo, thực phẩm, chất đốt, vải vóc, pin, cho đến các tiêu chuẩn phân phối được mua bổ sung, như xà phòng (xà bông) giặt, giấy dầu, xi măng, khung, săm, lốp xe đạp…

Cái đói đến “mờ mắt” thời bao cấp

Toàn bộ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống chỉ đáp ứng một phần cực nhỏ nhu cầu sinh tồn của 1 con người, cho nên mới tạo thành cái đói dai dẳng và trường kỳ tháng này qua năm khác. Điển hình là một người dân tự do được tiêu chuẩn 1,5 lạng (150gr) thịt/tháng, tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành. Thông thường nếu chọn thịt thì thôi mỡ, vì chỉ được chọn 1 trong 2. Thời đó không có dầu ăn, phải dùng mỡ để xào, nấu nên mỡ rất quý. Các gia đình vì vậy thường hay chọn “mỡ” thay vì “thịt”, như vậy sẽ tích cóp được 1 hũ mỡ dùng để chiên xào nấu một thời gian dài hơn là 3 lạng thịt tiêu chuẩn trong tháng.

Tuy nhiên, cán bộ cao cấp lại có tiêu chuẩn gấp 40 lần “nhân dân”: 6kg thịt/tháng. Nhiều người cũng thắc mắc vì sự chênh lệch quá lớn này.

Rau có tiêu chuẩn 3-5kg/người/tháng, trong khi nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể cần từ 300gr-500gr/ngày.

Em bé dưới 1 tuổi cũng đói, vì tiêu chuẩn của em tất cả là 4 lon sữa đặc có đường “Ông Thọ” trong 1 tháng. Nên mới có cảnh các em bú “nước đường”, một điều mà thời nay dường như không thể tin nổi. Nếu mẹ của các em có giấy tờ chứng minh mất sữa hoàn toàn, thì em bé có khả năng sẽ nhận được 8 lon. Thậm chí có tiền vẫn phải chịu đói… vì không ai dám bán để mà mua!

Hàng hóa thời đó không được mua bán tự do trên thị trường như bây giờ, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác.

Trao đổi bằng tiền mặt bị hạn chế, nên có người thậm chí có tiền vẫn đói, vì không ai được phép “kinh doanh”. Không có những cái tên mỹ miều như bây giờ là “doanh nhân”, “hộ kinh doanh”, mà chỉ là “phe phẩy” hay “tư thương”, “chợ đen” … những từ mang hàm nghĩa rất tiêu cực và khinh miệt, nếu bị phát hiện sẽ bị công an bắt và tịch thu toàn bộ hàng hóa. “Siêu thị” hay “chợ” là những khái niệm gần như không tồn tại.

Câu nói “Có tiền mua tiên cũng được” ít nhất cũng không thể đúng ở thời bao cấp. Thời này, sổ gạo mới là thứ quan trọng nhất.

Từ sau 30/4/1975 – khi nền kinh tế đặc thù này áp dụng trên toàn quốc, những ai sống ở khu vực phía nam vốn quen với nền kinh tế tự do, chưa quen với cái “đói” trường kỳ của nền kinh tế bao cấp như ngoài bắc, bỗng đột ngột chịu “đói” đến hoảng hốt!

Sự thiếu thốn đi kèm chất lượng “thê thảm”

Sự thiếu thốn cũng đi kèm chất lượng “thê thảm”: gạo mốc xanh đen, gạo hẩm, bột mỳ mốc, rau vàng héo, thịt “bèo nhèo” (phần thịt “ngon” đã được chia chác cho mậu dịch viên và những “mối quan hệ” quen thân của mậu dịch viên).

Gạo thiếu, gạo mốc đen nên cơm thường xuyên là những bữa cơm độn mỳ sợi mốc, bột mì tồn kho (viện trợ từ Liên Xô), sắn khô xắt lát, ngô (bắp), bo bo (hạt lúa mì) hay gạo vỡ (gạo tấm)

Thịt quá ít, có cũng như không, nên thường đổi thành mỡ, để có cái xào nấu rau ăn dần. (Thời đó không có dầu ăn như bây giờ, thỉnh thoảng cũng chỉ có chút dầu lạc (dầu đậu phộng) hôi khét).

Những câu vè thời đó nói lên giá trị của những mặt hàng trong thời bao cấp:

Nhất gạo nhì rau

Tam dầu tứ muối

Thịt thì đuôi đuối

Cá biển mất mùa

Đậu phụ chua chua

Nước chấm nhạt thếch

Mì chính có “đếch”

Vải sợi chưa về

Săm lốp thiếu ghê

Cái gì cũng thiếu…

Thảm họa “mất sổ gạo”

Tuy “phàn nàn” thiếu thốn như vậy, nhưng thời đó nếu để mất tem phiếu sẽ là thảm họa, so thảm họa này với cảnh thiếu thốn thường nhật thì thiếu thốn vẫn còn là “thiên đường”. Các thế hệ thời đó sẽ đứng trước nguy cơ nhịn đói cả tháng, đi xin, đi vay mượn lương thực, hoặc mua chui lại của “phe tem phiếu” (người tích trữ đầu cơ trái phép tem phiếu).

Vì vậy thành ngữ “Mặt như mất sổ gạo” trở nên vô cùng nổi tiếng thời bấy giờ, dùng để mô tả một khuôn mặt ủ ê não nề không thể đau khổ hơn. Bởi vì thời đó, mất sổ gạo là cầm chắc nhịn đói! Nhịn đói không phải là một ngày hay một tháng mà có khi đến vài ba tháng. Bởi hành trình, thủ tục xin cấp lại cuốn “bảo bối quý giá” này khổ sở vô cùng. Suốt những ngày còn lại sẽ chạy vạy, vay mượn khắp nơi để sống sót qua ngày đoạn tháng.

Nạn ăn cắp diễn ra phổ biến và rất tinh vi, cũng khiến việc mất tem phiếu, mất sổ gạo diễn ra lại càng thường xuyên hơn.

Cảnh xếp hàng như chơi trò rồng rắn lên mây….

Muốn mua được lương thực, thực phẩm, các thế hệ thời đó cần đi xếp hàng 3, 4 giờ sáng để giữ chỗ, phòng khi cửa hàng bán nửa chừng hết lương thực, thực phẩm. Người ta dùng những cục gạch, chiếc dép, mảnh gỗ để ‘xí chỗ’ khi cửa hàng chưa mở cửa và người thật sẽ đứng vào hàng khi mở cửa.

Thậm chí nếu xếp hàng đầu, nhưng cũng không bảo đảm là sẽ được mua trước, bởi vì nếu có những sổ thuộc dạng ‘ưu tiên’ hoặc ‘chen ngang’ do có móc ngoặc với nhân viên thương nghiệp, hoặc đơn giản là xếp hàng tới nơi mới biết đã bị ăn cắp tem phiếu hay sổ rồi.

Rất nhiều khi, mỏi mệt rã rời vì xếp hàng cả đêm, nhưng tới gần lượt, thì cánh cửa hàng mậu dịch sẽ sập xuống phũ phàng trước mặt cùng với câu nói lạnh băng của cô mậu dịch viên “HẾT HÀNG” … Vậy là lê bước về nhà để hôm sau đi xếp hàng tiếp…

Bụng đói cật rét: Không những đói mà còn rét, bụng càng đói thì lại càng rét (lạnh)

Không những đói, các thế hệ thời đó còn chịu rét, vì một năm tiêu chuẩn của một người được 5-7m vải để may quần áo, tương đương với định mức 2-3 bộ quần áo/năm. Nên cảnh mặc quần áo vá chằng vá đụp là điều hết sức thông thường (có lẽ đây là cảnh miền Bắc, trong Nam không có tiêu chuẩn về mua vải, vì miền Nam đối với XHCN thì vẫn còn giàu, mặc dù đã bị đánh tư sản mại bản, bị đổi tiền theo quy định 500 ăn 1 đồng và tối đa 1 hộ chỉ được đổi lấy 200 đồng, nghĩa là dù trước kia bạn là triệu phú, Doanh nhân thì mỗi gia đình bất kể nhiều hay ít người cũng chỉ được đổi tối đa là 200 đồng tiền Hồ, tuy nhiên chỉ một hai nam sau thì người ta phải mua vải vụn ở các cửa hàng may cắt về may áo nối. Lúc đó gia đình tác giả cũng có làm nghề này để sinh sống. Ở cácthành phố, các tỉnh miền Nam người dân còn bị lùa đi kinh tế mới.  

“Cái nghèo” sinh ra “cái hèn”: Cái đói gặm nhấm mất lương tri và những điểm sáng sót lại của tình người thời nghèo đói …

Thế hệ trẻ thời nay sẽ không thể tưởng tượng nổi cảnh thìa nhôm ở cửa hàng mậu dịch ngày xưa của ông cha mình phải bị đục lỗ, và đĩa nhôm ở cửa hàng cũng phải bắt vít chết xuống bàn chứ không thể để tự do. Vì sao vậy?

Ở thời đó, người ta đã phải chấp nhận một nghịch cảnh của xã hội là: Cái đói dai dẳng, thật tàn nhẫn, đã gặm nhấm mất lương tri của nhiều người. Nạn ăn cắp vặt trở nên phổ biến toàn dân, nên các cửa hàng mậu dịch chỉ còn cách đó để tránh bị mất mát đồ đạc.

Ăn cắp thời đó đã trở nên rất tinh vi, tới nỗi hình thành nên một khái niệm là “nghệ thuật móc túi siêu đẳng” … Rất nhiều kẻ cắp lão luyện thường xuyên trà trộn vào các dãy xếp hàng rồng rắn lên mây, vờ như xô đẩy người khác hay bị xô đẩy, để rồi lợi dụng lúc xô đẩy đó mà áp sát đối tượng để “móc túi” một cách “nghệ thuật”.  Có quá nhiều người thời đó xếp hàng, mặc dù rất cẩn thận giữ chặt phiếu rồi, mà tới khi đến lượt mua hàng thì phiếu đã không cánh mà bay … Khuôn mặt đầy nước mắt của họ vào thời khắc đó khốn khổ đáng thương hơn bất cứ điều gì … nhịn đói rồi…

Căn bệnh ganh tỵ và kèn cựa cũng trở nên trầm kha hơn ở các cơ quan đoàn thể vì sống theo chế độ tập thể khiến ai cũng coi sự công bằng tuyệt đối là một chân lý, họ bị méo mó tính cách vì tin vào điều đó.

Nhưng một điểm sáng của thời đó so với thời nay mà người ta vẫn nhận thấy đó là tình người, tuy có ganh tỵ và kèn cựa nhau vì miếng cơm manh áo, nhưng người với người cũng vẫn thường hay đối xử tốt bụng, nâng đỡ nhau, sẵn lòng giúp đỡ nhau và “coi việc của bạn như việc của mình…” Nhờ giữ chỗ xếp hàng, nhờ đặt gạch, nhờ bơm xe, vá xe đạp, nhờ trông hộ nhà, nhờ trông con nhỏ …vv, nhiều cái nhờ vả thời bao cấp không còn tồn tại ở thời nay trong cuộc sống hiện đại mà ai cũng quay cuồng với các vấn đề riêng của cá nhân….

Những câu chuyện không thể tin nhưng có thật thời bao cấp về cái đói: Xin lỗi lợn!

Các câu chuyện bi hài có thực 100% về cái đói thời bao cấp do bác Trần Thị Thúy Nga ở Hà Nội kể lại cho phóng viên Đại Kỷ Nguyên:

Ở một đơn vị quân đội, giống như mọi đơn vị khác, có tình trạng nuôi lợn để tăng gia thời bao cấp. Thời đó chưa có cám công nghiệp, toàn bộ thức ăn cho lợn phải dựa vào nguồn cơm thừa canh cặn của bếp ăn tập thể. Thông lệ là phần “cơm cháy” ở đáy nồi cơm của bếp ăn tập thể là để dành cho lợn. (Thời đó không có nồi cơm điện chống dính, nên nồi cơm luôn có cháy)

Nhiều lần nhà bếp bỗng thấy cháy nồi cơm cứ bị “biến mất”, nên đã quyết định “điều tra”, “rình” để bắt kẻ tội phạm.

Cuối cùng kẻ tội phạm là một anh lính trẻ đã bị bắt. Vì quá đói trường kỳ, nên anh đã làm liều, đi ăn vụng cháy dành cho lợn hết lần này đến lần khác.

Hình thức kỷ luật áp dụng cho anh là: Tới chuồng lợn và xin lỗi lợn nhiều lần …

1 con vịt cỏ 7 lạng cho 200 người ăn và phương châm “Sống cùng sống, chết cùng chết” thời bao cấp

Đó là câu chuyện thời sinh viên của bác Nga. Bếp ăn tập thể sinh viên thời đó lâu lâu có bữa gọi là “cải thiện”, tức là có “thịt” chứ không chỉ rau và muối như thường lệ. Các sinh viên năng động phải tham gia vào công tác hậu trường nhà bếp. Lần ấy bài toán nhà trường đưa ra quá khó khăn cho bác. Món cải thiện cho bếp ăn của trường là một chú vịt cỏ bảy lạng gồm cả xương sau khi bỏ lông. Bài toán là số thịt này nhất định phải được chia đều cho các suất ăn của 200 sinh viên. Làm thế nào đây để đạt được sự công bằng? Các phương án luộc, xào, nấu… đều không thể khả thi.

Vắt óc mãi không thể tìm ra phương án phân chia công bằng, cuối cùng 1 tia sáng cũng phải lóe lên: băm (bằm) toàn bộ con vịt cỏ nhỏ bé đó, bằm cả xương, tới mức li ti như vụn bột, sau đó cho vào nấu canh toàn bộ. Cuối cùng các sinh viên không thể nào nhận ra một dấu tích gì của món “Thịt vịt cải thiện” của nhà trường trong suất ăn tập thể, vì đã bị bằm quá li ti và tan biến mất trong một nồi canh quá lớn cho 200 người ăn… Các sinh viên không phải tranh giành hay kèn cựa, kiện cáo nhau nữa…

******

Lại nói về thời sau “Bao cấp”:

 Sau khi Mỹ dỡ bỏ cấm vận đối với VN, ngày 3. 2. 1994, thì đời sống người dân về mặt kinh tế có chút dễ thở hơn trước, nhưng cho đến khi VN được vào tổ chức “Thương mại Thế giới” (WTO), thì bộ mặt mua bán ở trong nước mới có sinh khí, cảnh đói khổ mới thực sự đỡ hơn. Trong mấy năm 2004, 2005, rồi 2007 hay 2008 gì đó là những năm tôi về thăm gia đình ở Sài Gòn, thì đã thấy có những Siêu thị của nước ngoài, rồi người đi lại, mua bán tấp nập, nhưng người ở ngoại quốc về vẫn còn bị mang giấy tờ đi trình diện chính quyền địa phương. Tiến trình vô WTO như sau: Sau khi VN được Mỹ mở cấm vận (1994), thì chỉ một năm sau VN nộp đơn xin vào WTO (1995). Sau 11 năm ròng rã, qua 15 vòng đàm phán, ngày 15.11. 2006 Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính, Bộ Thương mại tổ chức họp báo và công bố toàn văn các cam kết về thuế quan, dịch vụ, các cam kết đa phương bằng tiếng Việt, như cam kết về hàng hóa, cam kết về dịch vụ, các doanh nghiệp v.v… trên các phương tiện thông tin đại chúng. Một năm sau đó, tức vào ngày 07. 11. 2007 tại Geneva (Thụy Sĩ), Việt Nam đã chính thức bước vào ngôi nhà chung của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) –  là thành viên thứ 150 của tổ chức này.