VẤN NẠN HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH
“Một trăm năm trước đây, tất cả mọi người đều nghĩ rằng thật là nực cười khi nói về hôn nhân đồng tính.
Ngày nay, bất cứ ai phản đối nó đều bị xã hội loại trừ”.
Đức Bênêđictô XVI. (PAPST BENEDIKT XVI – Ein Leben. 2020).
04. QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Để nắm vững Quan điểm, Lập trường, hay Giáo lý của Giáo hội Công giáo, chúng ta cần dựa vào những văn kiện chính thức của Giáo hội, trường hợp chúng ta đang tìm hiểu, vấn đề đồng tính, là “Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo” (Sách GLHTCG) được Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 11 tháng 10 năm 1992 và “Thư của Bộ Giáo Lý Đức Tin gửi cho các Giám mục Công giáo về việc chăm lo mục vụ cho những người đồng tính” (Thư BGLĐT) được Đức Hồng y Bộ trưởng Joseph Ratzinger ký ngày 01/10/1986. Sách GLHTCG và Thư BGLĐT của Tòa Thánh vừa nêu là hai văn kiện chính thức, có thẩm quyền tuyệt đối, tối cao của Giáo hội công giáo về vấn đề chúng ta đang đề cập hôm nay, vấn đề đồng tính.
Vậy, 1- Giáo lý Công giáo nói gì về đồng tính?
2- Dựa trên Cơ sở nào để đem ra giáo lý ấy? và
3- Giáo hội có những Hướng dẫn nào dành cho những anh chị em có khuynh hướng đồng tính?
Giáo lý của Giáo hội Công giáo
– Đồng tính, “thác loạn từ bản chất, không thể chấp nhận”
Sách GLHTCG số 2357. “đồng tính là những liên hệ giữa những người nam hay những người nữ, cảm thấy sự hấp dẫn tính dục một cách mạnh hơn hẳn, hoặc một cách độc chiếm, đối với những người cùng giới tính. Nó đã mặc lấy những hình thức rất khác nhau qua các thế kỷ và nơi những văn hóa khác nhau. Sự phát sinh về tâm thần của nó vẫn còn nhiều điểm chưa lý giải được.
Dựa trên Thánh Kinh vẫn lên án chúng là những hành vi suy đồi nghiêm trọng. Truyền thống luôn luôn tuyên bố “những hành vi đồng tính là thác loạn từ bản chất của chúng”. Những hành vi này nghịch với luật tự nhiên. Chúng đóng cửa không cho hành vi tính dục ban tặng sự sống. Chúng không xuất phát từ một sự bổ khuyết cho sinh hoạt tình cảm và tính dục thật sự. Chúng không thể được chấp nhận trong bất cứ trường hợp nào.”
– Khuynh hướng đồng tính là rối loạn khách quan
Thư BGLĐT số 3: “Mặc dù xu hướng đặc biệt này của người ĐT không phải là một tội, hầu như là một khuynh hướng mạnh mẽ, hướng tới một điều sai trái về bản chất; và do vậy bản thân khuynh hướng này phải được xem như một rối loạn khách quan.”
– Đồng tính không phải là một thiết lập mang tính bổ sung.
Thư BGLĐT, số 7: “Chọn một người cùng giới để phục vụ cho hoạt động tình dục của mình chính là phá hủy biểu tượng và ý nghĩa đẹp đẽ mà Đấng Tạo Hóa đã thiết lập về tính dục, nếu không nói đến mục tiêu của hành vi tính dục. Hoạt động tình dục đồng giới không phải là sự kết hợp bổ sung cho nhau để thông truyền sự sống.”
– Kết hợp yêu thương và hiến dâng đời sống
Thư BGLĐT số 7: “Giáo Hội … tôn vinh ý định thiêng liêng của việc kết hợp yêu thương và hiến dâng cuộc sống cho nhau giữa người nam và người nữ trong bí tích hôn nhân.”
– Áp lực cho Giáo Hội
Thư BGLĐT số 8: “Ngày nay với việc gia tăng số người đồng tính, ngay cả trong Giáo hội, đã gây ra một áp lực to lớn, đòi hỏi Giáo hội phải chấp nhận tình trạng đồng tính như thể nó không có gì là rối loạn và phải bỏ qua hành vi này.”
- Nền tảng Thánh Kinh
– Hòa hợp giữa Thánh Kinh, Thánh truyền và Huấn quyền
Thư BGLĐT, số 5. “Giáo thuyết của Giáo Hội về vấn đề này vì vậy không phải dựa trên vài câu rời rạc dùng cho sự lý luận thần học dễ dàng, nhưng trên nền tảng vững chắc của một bằng chứng Kinh Thánh hằng định. Một cách chính yếu, cần nhìn nhận rằng Kinh Thánh không được hiểu một cách chính xác khi chúng được giải thích theo một cách thức đối nghịch với Truyền Thống sống động của Giáo Hội. Một cách đúng đắn, việc giải thích Kinh Thánh phải hòa hợp một cách căn bản với Truyền Thống đó.
Công Đồng Vatican II trong Dei Verbum số 10 nói đến điều trên như sau: “Vì vậy, rõ ràng rằng trong sự sắp xếp khôn ngoan tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, Truyền Thống thánh thiêng, Kinh Thánh, và Huấn Quyền của Giáo Hội đã nối kết và liên hệ chặt chẽ với nhau đến mức mỗi lãnh vực không thể đứng vững nếu không có hai lãnh vực kia”.
Sau đây chúng tôi xin ghi lại ngắn gọn những trích đoạn Thánh Kinh[3] phải được xem như là cơ sở có thẩm quyền tuyệt đối, tối cao đối với vấn đề đồng tính. Kèm theo là những nhận định từng phần của Bộ GLĐT. (x. Thư BGLĐT ngày 1/10/1986).
CỰU ƯỚC
@Sáng Thế 19, 1-11, 15, 23.“ Hai sứ thần đến thành Xơ- đôm vào buổi chiều… Vừa thấy các ngài, ông Lót đứng lên ra đón các ngài và nói: “Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại nhà tôi tớ các ngài đây để nghỉ đêm và rửa chân, rồi sớm mai các ngài tiếp tục đi đường”. Họ đáp: “Không! Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố”. Nhưng ông nài nỉ các ngài mãi nên các ngài ghé lại và vào nhà ông. Ông làm tiệc đãi các ngài, nướng bánh không men, và các ngài đã dùng bữa. Các ngài chưa đi nằm thì dân trong thành, tức là người Xơ-đôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, toàn dân không trừ ai. Chúng gọi ông và bảo: “Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đem họ ra cho chúng tôi chơi [4]”.
“Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng, rồi nói: “Thưa anh em, tôi van anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi.”
Chúng đáp: “Xê ra! Tên này là một ngoại kiều đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia!” Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.
Còn những người đứng ngoài cửa, thì các ngài làm cho chúng ra mù, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất, khiến chúng không sao tìm ra cửa…”
“Khi hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: “Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt”..
“Khi mặt trời mọc lên trên mặt đất thì ông Lót vào Xô-a. Đức Chúa làm mưa diêm sinh và lửa từ Đức Chúa, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Người phá đổ các thành ấy và cả vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cối trên đất.”
Trong đoạn văn trên, sự phê phán luân lý chống lại các quan hệ đồng tính là không thể nghi ngờ. Kinh Thánh nhấn mạnh sự phi luân lý, phi đạo đức và tội lỗi dâm ô của dân thành Xơ-đôm qua câu: “Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đem họ ra cho chúng tôi chơi” thể hiện sự thác loạn từ già đến trẻ đều muốn ăn chơi và đàn điếm với hai vị khách của ông Lót.
Còn tại sách Lêvi, một trong 5 cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh đã nhấn mạnh đặc tính và không thể thay đổi của hôn nhân lại nhấn mạnh sự dâm ô và tội lỗi phải bị trừng phạt khi quan hệ đồng tính:
@Lêvi 18, 22.“Lời của Đức Chúa: “Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm”.
Lêvi 20,13. Mô tả các điều kiện cần thiết để thuộc về Dân Được Tuyển Chọn, tác giả loại trừ khỏi Dân của Thiên Chúa những ai hành xử theo đồng tính. Đức Chúa phán với ông Môsê rằng… “Khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng”.
Không chỉ trong Cựu Ước mà còn được nhấn mạnh và nhắc lại nhiều lần trong Tân Ước. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định một cách rõ ràng và xác thực rằng: : “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”.
Do đó, không có khái niệm nào khác về hôn nhân như ngày nay mà loài người, thậm chí là kể các đấng bậc có chức quyền trong Giáo Hội có thể làm thay đổi hay cải sửa lời Chúa theo ý muốn của thế gian được. Thế rồi, vin vào nhiều lý do khách quan, dựa vào lòng thương xót và lòng nhân đạo giả hình mà có thể thông cảm hay vẽ ra những tông huấn mà đi ngược với Giáo Lý của Chúa. Điều tồi tệ hơn là chính Vị có chức quyền tối cao ấy lại hay bắt bẻ và “xử khó”, thậm chí là cách chức những người bảo vệ truyền thống và giáo lý của Chúa nhưng lại hết lời ca ngợi và khuyến khích những vị Lm đồng tính và bảo vệ những người đồng tính. Chúng tôi sẽ trình bày tiếp vấn đế này vào các kỳ tiếp theo, còn bây giờ xin trở lại với những giáo huấn của Chúa trong thời Tân Ước.
TÂN ƯỚC
Matthêu 19,3-6. “Những người Pharisêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” Người đáp: “Các ông không đọc thấy điều này sao: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”.
Đó là định nghĩa hôn nhân một nam một nữ, chứ không phải là đồng tính như ngày nay người ta muốn định nghĩa: “Hôn nhân là sự kết hợp giữa hai người”.
@1 Côrintô 6, 9-10. “Nào anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp sao? Anh em đừng lầm lẫn. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, trụy lạc, kê gian, (c.10), những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp”.
Rõ ràng thánh Phaolô liệt kê những ai hành xử theo đồng tính vào số các người “sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp”.
@Rôma 1, 23. 26.“Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết…”.“Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên. Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình”.
Thánh Phaolô sử dụng hành vi đồng tính như một thí dụ của sự mù quáng đã chinh phục con người. Thay vì sự hòa hợp nguyên thủy giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, sự méo mó gay gắt của thờ ngẫu tượng đã dẫn đến mọi loại quá trớn luân lý. Thánh Phaolô không tìm thấy một thí dụ nào rõ ràng hơn về sự bất hòa hợp này là các quan hệ đồng tính.
@1 Timôthê 1, 9-10.“Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh, phạm thượng, giết cha giết mẹ sát nhân, (9), dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh” (10). (“Kê gian, một lối thỏa mãn nhục dục kỳ quái” cước chú của CGKPV)
Rõ ràng trong câu 10, minh nhiên gọi những ai làm hành vi kê gian, đồng tính, là kẻ tội lỗi.
Như thế, rõ ràng và rành mạch từ Cựu Ước cho đến Tân Ước, qua các giáo lý và Thánh truyền đều xác định quan hệ đồng tính là sự tội và không thể chấp nhận. Nhưng, với những tỷ lệ nhỏ như ban đầu chúng tôi đã đưa ra những con số và dẫn chứng mà anh chị em chúng chẳng may hay ta tạm gọi là mắc bệnh đồng tính thì chúng ta phải đối xử và hướng dẫn họ như thế nào cho “phải đạo”. Dưới đây là hướng dẫn mục vụ của GLHTCG cho các anh chị em đồng tính.
Hướng dẫn Mục vụ
– Người đồng tính phải được đón nhận với sự tôn trọng
Sách GLHTCG số 2358: “Một số không nhỏ những người nam và người nữ có khuynh hướng đồng tính thâm căn. Đối với đa số những người này, sự nghiêng chiều vô trật tự một cách khách quan đó, là một thử thách. Họ phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị. Phải tránh bất cứ dấu hiệu phân biệt đối xử bất công nào đối với họ. Những người này được kêu gọi thực hiện ý Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, và, nếu là Kitô hữu, họ được kêu gọi kết hợp các khó khăn họ có thể gặp phải do hoàn cảnh của mình, với hy lễ thập giá của Chúa”.
Thư BGLĐT, số 9, 10: “Giáo Hội không bao giờ nhẫn tâm”. “Phẩm giá nội tại của mỗi con người phải luôn luôn được tôn trọng trong lời nói, hành động hay trong luật
– Lên án ác tâm bạo lực với người đồng tính
Thư BGLĐT, số 10 “Thật đáng lên án khi những người đồng tính trở thành mục tiêu của ác tâm bạo lực trong lời nói cũng như hành động. Những cách đối xử như vậy thật đáng để các chủ chăn của Giáo hội lên án dù ở bất cứ nơi đâu.”
– Không thể chấp nhận đồng tính về mặt luân lý
Thư BGLĐT, các số 3, 7: “…Thế nên sự quan tâm đặc biệt và chăm sóc mục vụ phải nhắm đến những người đang trong tình trạng này, sợ rằng nếu để họ tin sống và hành động theo khuynh hướng đồng tính là một lựa chọn có thể chấp nhận về mặt luân lý. Chỉ trong mối quan hệ vợ chồng thì việc sử dụng khả năng của giới tính mới hợp luân lý.”
– Nói “không thể cưỡng lại được” chỉ là giả định không cơ sở
Thư BGLĐT số 11. “Bằng mọi giá, điều cần tránh là những giả định không có cơ sở và hạ thấp phẩm giá con người. Giả định này cho rằng hành vi tính dục của những người đồng tính hoàn toàn không thể cưỡng lại và vì thế hành vi ấy vô tội.”
– Kêu gọi người đồng tính giữ sự khiết tịnh
Sách GLHTCG số 2359: “Những người đồng tính được kêu gọi giữ sự khiết tịnh. Nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho biết tự do nội tâm và có khi nhờ sự nâng đỡ của tình bằng hữu vô vị lợi, nhờ việc cầu nguyện và ân sủng bí tích, chính họ có thể và phải dần dần và cương quyết tiến đến sự trọn hảo Kitô giáo”.
– Kết hợp với thập giá Chúa để từ bỏ đồng tính
Thư BGLĐT, số 11 “Việc từ bỏ hoạt động đồng tính đòi hỏi cá nhân ấy phải cộng tác mật thiết với Chúa để được ơn ban tự do”.
Thư BGLĐT, số 12 “Các người đồng tính phải làm gì để theo chân Thiên Chúa? Một cách nền tảng, họ được mời gọi để thực hiện ý Thiên Chúa trong đời sống của họ bằng cách nối kết bất cứ đau khổ và khó khăn, mà họ gặp phải do bởi tình trạng của họ, với hy sinh thập giá của Chúa. Thập giá đó, đối với người tín hữu, là hy sinh mang lại hoa trái vì từ sự chết đó, đem lại sự sống và sự cứu rỗi”.
Tạm kết
Đồng tính và Hôn Nhân Đồng Tính (HNĐT) là những vấn đề xã hội, đã và đang kéo dài từ nhiều thập niên này, đã phát sinh và nhanh chóng lan rộng tại các nước bên Âu, Mỹ, Úc, những môi trường mà quan niệm về đạo đức được xem là cởi mở thông thoáng hơn nhiều so với các quốc gia Á Châu, trong đó có Việt Nam. Tại các quốc gia đó đã xuất hiện nhiều nhóm, nhiều phong trào, nhiều tổ chức cổ vũ, ủng hộ đồng tính, HNĐT. Họ diễu hành, biểu tình – người diễu hành, biểu tình không chỉ là những người đồng tính mà nhiều người không phải là đồng tính cũng tham gia cổ vũ – gây áp lực lên các chính phủ, lên Giáo hội đòi công nhận quyền công dân của người đồng tính, đòi hợp pháp hóa HNĐT. Và cụ thể, thực tế họ đã phần nào thành công: một số quốc gia đã lần lượt theo nhau hợp thức hóa, công nhận HNĐT, công nhận quyền chuyển giới, quyền nhận con nuôi của những cặp đồng tính.
Đây là vấn nạn gây nhức nhối cho các giới chức trong Giáo hội – Giáo hội hoàn vũ cũng như Giáo hội địa phương – bởi những gì những người biểu tình, những người đồng tính đòi hỏi đều đi ngược hẳn với quan điểm, giáo lý của Giáo hội Công giáo, ngược hẳn với Thánh Kinh.
Lo âu trước sự bành trướng của các phong trào ủng hộ, công nhận vấn đề đồng tính và HNĐT ngày một gia tăng, hơn 20 năm trước đây, ngày 01/10/1986, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã gửi cho các Giám mục Công Giáo trên thế giới một lá thư nêu lên quan điểm chính thức của Giáo hội và kêu gọi các Giám mục quan tâm chăm lo mục vụ cho những người đồng tính, như chúng tôi đã trích dẫn khá nhiều ở phần trên.
Lá thư của Bộ Giáo lý Đức tin không chỉ hữu ích cho anh chị em đồng tính mà cho tất cả mọi tín hữu, đặc biệt cần thiết, hữu ích cho hàng giáo sĩ, tu sĩ. Bởi giám mục, linh mục, tu sĩ là những người phải nắm vững quan điểm, giáo lý của Giáo hội để hướng dẫn, chăm sóc cho anh chị em đồng tính đã đành mà còn phải biết rõ để hướng dẫn người tín hữu đứng vững, không vật vờ trước những làn gió độc, những giải thích sai trái không phù hợp với Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của Giáo hội.
Trong Giáo hội, anh chị em đồng tính là thiểu số, là những người con có khuynh hướng tính dục khác với đa số, vẫn được Giáo hội đặc biệt quan tâm, chỉ ra những hướng dẫn cụ thể để họ thực thi mà hưởng ơn cứu độ. Cầu mong anh chị em đồng tính sẵn lòng nỗ lực thực thi những gì Mẹ và Thầy Giáo hội chỉ bảo để có thể vào được Nước Trời là nơi không còn bị dằn vặt bởi Đồng tính, Dị Tính, Song Tính hay Hoán Tính nữa mà sẽ sống… “như các thiên thần, sicut angeli”. (Mt 22, 30).
(Còn tiếp)
—————
Chú thích:
Bài viết có sử dụng nguồn: https://tgpsaigon.net/bai-viet/dong-tinhhon-nhan-dong-tinh-quan-diem-cua-giao-hoi-cong-giao-63571
[1] Những gì viết ra sau đây đều đã được “sàng lọc” từ nhiều nguồn đạo, đời khác nhau, viết theo mô thức compendium, toát yếu, hỏi thưa, ngắn gọn, chỉ ghi những ý tưởng chính yếu, căn bản. Những mục nào cần “nói có sách mách có chứng” thi sẽ được trưng dẫn nguyên văn, xuất xứ, đầy đủ.
[2] Trong mục đặc biệt quan trọng này các văn kiện chính thức của Giáo hội cũng như các bản văn Thánh Kinh sẽ được trích dẫn đầy đủ, nguyên văn.
[3] Những trích dẫn Thánh Kinh chúng tôi theo bản dịch của Nhóm CGKPV
[4] “ut cognoscamus”, Nhóm CGKPV dịch là “cho chúng tôi chơi”, Nhóm Tâm Linh dịch là “cho chúng tôi hưởng lạc”, cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là “cho chúng tôi biết”.
——–oOo——-
Anh chị em trong các chương trình TGTL/SVTT và Dấu Chỉ Thời Đại mến chúc quý thính giả và các bạn trẻ một tuần lễ vui tươi và bình an trong tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria.