Vẫn tiếp theo Điềm Báo thứ 30

  1. Một quyền lực xấu đã áp đặt, khiến cho các Sứ Điệp quan trọng của Đức Mẹ đã bị ém nhẹm, hoặc làm cho bình thường hóa các Điềm Báo, hay Cảnh Giác của Đức Mẹ, khiến cho nhân loại nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng ngày càng rơi vào tăm tối.

Trước khi tiếp tục tìm hiểu các Ấn còn lại và Bẩy Tiếng Kèn “Báo Tử”, kỳ trước, khi kết thúc SVTT#52, chúng tôi có nói “Chúa rất muốn loài người làm thay đổi những câu chuyện trong Khải Huyền, mục đích là để có thể thoát khỏi án phạt. Đó là việc loài người có thể!”.

Từ xưa tới giờ, Người Công Giáo chúng ta chỉ có thể làm thay đổi các sự kiện tương lai thuộc về lịch sử, khi tất cả mọi người Tín Hữu cùng bước đi trong giòng trường lưu của Giáo Hội. Cùng tắm gội và hòa nhập với nhau trong Ân sủng, cùng ngoan ngoãn thi hành các Sứ Điệp của Đức Mẹ, và như thế thì cũng tất nhiên là trung thành với các giới răn của Chúa.

– Nhưng hiện tình GH những năm gần đây, Đức Mẹ cho thấy là “đang ở trong thời tăm tối” (ĐB.16), “quỷ sẽ dùng mọi mưu mô xảo trá để đưa những người dâm ô tội lỗi vào các dòng tu mà làm điều hỗn loạn. và dâm ô đang lan tràn khắp nơi trên mặt đất” (ĐB.8). “Xã hội ngày nay đang đứng bên cạnh những hình phạt gớm ghê và những biến chuyển kinh hồn, người ta sắp phải bị đập bằng roi sắt và uống cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (ĐB.10).

Tình hình bây giờ, không khác gì như trong trường lưu con nước chảy, cứ thường xuyên nổi sóng, làm cho giòng nước trong mát ngày nào, giờ trở nên đục ngầu, khiến cho những kẻ ở trong thì toan tính bước ra (hiện tượng bỏ đạo đã được nói trong vài số trước, như ở Đức, ở các nước Âu Châu, ở Mỹ và tình trạng giữ đạo ở nhiều nơi khác). Còn những kẻ ở ngoài cũng không muốn bước vào! Mặc dù bên ngoài giông gió, báo hiệu nhiều bão tố, nhưng không ai biết đó là những dấu chỉ thời đại. Họ như dân chúng thời ông Môse là vẫn cứ ăn chơi, sa đọa cho đến thời điểm cuối cùng!

* Từ lâu, Đức Mẹ đã thấy trước viễn tượng đen tối này sẽ xảy ra cả trong lẫn ngoài Giáo Hội. Gần hai thế kỷ trước (1846), khi hiện ra ở La Salette, Đức Mẹ đã cho nhân loại Ba mươi Sáu Điềm Báo, nói trước loài người đã bắt đầu bước vào thời kỳ tăm tối. Thiên Chúa sẽ phóng xuống thế gian lưỡi gươm thứ nhất (ĐB.22). Thế rồi, nhát chém thứ nhất: Đệ Nhất Thế Chiến  (1914-1919) – một hình phạt, mới chỉ gọi là thử để cảnh cáo loài người đừng coi thường chiếc roi thịnh nộ của Thiên Chúa. Có Lời Đức Chúa phán với tiên tri Êdêkien rằng: “Hỡi con nguời … Gươm đây, gươm đây, gươm đã mài, đã liếc, mài để sát hại, liếc để phóng ra những tia chớp” (Ed. 21:13-15). 19 triệu người chết, với sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất lẫn tinh thần rất sâu sắc và lâu dài. Nhát chém thứ hai đó là trận Đệ Nhị Thế Chiến (1939 – 1945), để gia tăng cảnh cáo đối với sự lì lợm của con người. Thế rồi gần 70 triệu người bị chết bởi trận thế chiến đó.

– Dẫu vậy, chỉ sau cuộc chiến tranh tàn, loài người ra như những viên đá cuội Sau cơn mưa mọi sự lại đều khô ráo. Thế là loài người lại ăn chơi thả dàn, hưởng thụ bù đắp. Hầu hết đã quên chuyện cũ, và chẳng ai cần quan tâm đến những lời cảnh báo! Nhân loại càng ngày càng sống trong dục vọng đam mê, và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt, rồi tệ hơn xưa, họ ngày càng kiêu ngạo về những thành quả của văn minh sáng chế, và dẫm đạp lên các giới răn, cùng lề luật của Thiên Chúa.

* Đức Mẹ cũng đã nói trước qua Melanie: Những người cai trị thế giới sẽ bảo nhau phá bỏ và làm chết đi tất cả những nguyên tắc Công Giáo (Tức là lề luật và các giới răn của Chúa), âm mưu thay thế bằng duy vật vô thần, thuyết thông linh và các tà thuyết khác, cùng tính nết xấu”( ĐB.19).

* Còn các chức sắc có thẩm quyền trong Giáo Hội thì:

Một là cố tình ém nhẹm, lơ đi không thèm phổ biến những Sứ Điệp quan trọng của Đức Mẹ. Tỷ dụ như Sứ Điệp La Salette rất quan trọng, và Đức Mẹ nói cho biết rất rõ ràng, nhưng thử hỏi giáo dân được mấy người biết? Chỉ vì trong đó các ngài sợ người ta biết là “Rôma sẽ mất đức tin, và trở thành ngai tòa của Tên Phản Kitô” (ĐB. 31). Khi ấy chắc người ta sẽ hỏi vậy các đấng bậc ngồi trong đó đã làm cái gì, mà để cho ma quỉ nhẩy vào? Và cũng chỉ vì Đức Mẹ nói thẳng: “Những vị tướng lãnh của Thiên Chúa (Giáo Quyền) đã chểnh mảng cầu nguyện sám hối. Quỷ lấp trí khôn các vị. Các vị sẽ để cho quỷ già lôi kéo và làm hư hỏng đi… Những vị đó một số tự cho là cấp tiến, một số có thiện cảm với cộng sản và tin tưởng rằng Giáo Hội có thể đi đôi với cộng sản (chuyện này đã và đang xảy ra rồi). Một số lại có chân trong bè nhiệm (tức Tam Điểm”) (ĐB.11). Mẹ cũng đã nói với các em (Melanie & Maximine) “… Nếu dân của Mẹ không tự nguyện tuân theo, Mẹ sẽ phải để cho cánh tay Con của Mẹ giáng xuống trên họ. Mẹ đã đau buồn quá lâu vì các con! Mẹ đã phải cầu nguyện không ngừng để Con của Mẹ không bỏ rơi các con. Các con không bao giờ hiểu Mẹ đau lòng biết chừng nào. …”. Nhưng thực ra có mấy người biết tới các Điềm Báo này ở La Salette. Bởi người ta sợ đem phổ biến các sứ điệp, để cho mọi người biết như Mẹ đã nói trong các ĐB. thì thần tượng xưa nay trong cái nhìn của giáo dân về các ngài, liệu còn đứng vững được không?! Thế cho nên các ngài đã không thèm phổ biến! Ngoại trừ ĐGH. Piô IX và Lêô XIII không những chính thức công nhận Sứ Điệp La Salette, ngày 16.11. 1851 và còn tuyên bố:“Mệnh lệnh này phải được phổ biến khắp nơi”. Nhưng rồi dần dần người ta lơ đi, theo thời gian, không những đã không được phổ biến, các GH địa phương còn cho chìm xuồng, đến nỗi năm 1962, Đức Mẹ đã nói với một linh hồn được đặc tuyển (vì ĐM. trả lời 80 câu hỏi của cha A.Althoffer qua LH. đặc tuyển này): “Satan sẽ dùng mọi mưu chước quỷ quyệt để người ta không biết đến mệnh lệnh quan trọng này của Mẹ”. Trong ngày lễ Đức Bà La Salette 19-9-1962, Đức Mẹ cho LH. đặc tuyển rõ Giáo Hội đứng trước ngã ba đường; hoặc sẽ đi đến diệt vong, hoặc nếu hiểu biết mệnh lệnh rất quan trọng này mà Mẹ ban tại La Salette thì sẽ thấy con đường phải theo mà không bao giờ được bỏ”. Còn cha André Althoffer, người được ĐM. trả lời 80 câu hỏi ngày 04.11. 1962, đã cho biết: “Mẹ nhấn mạnh nhiều lần rằng những ĐB, này quan trọng hơn tại Fatima. Fatima 1917 chỉ là tiếng vang của mệnh lệnh Salette. Nhưng người ta đã chôn vùi vào dĩ vãng kho tàng rất quý giá có liên quan đến đời sống hiện tại, và sự vĩnh cửu của hằng triệu linh hồn và cả linh hồn tôi nữa (lời cha A. Althoffer). Vì vậy tôi trao kho tàng này cho các nghị phụ trong công đồng vaticano II, vì vận mạng nhân loại đang ở trong tay các Ngài”. Nhưng kết quả cho thấy là người ta đã không để Đức Mẹ hướng dẫn bằng chính Sứ Điệp La Salette của Đức Mẹ, lại cũng không công bố Bí Mật Thứ Ba Fatima, mà chính ĐM. muốn mọi người phải được biết vào năm 1960, để làm tài liệu đức tin chuẩn bị cho Công Đồng Vat II, nhưng quả thật, đúng như Đ.Mẹ đã nói: “Satan sẽ dùng mọi mưu chước quỷ quyệt để người ta không biết đến những mệnh lệnh quan trọng của Mẹ”. Bí Mật Thứ Ba Fatima của Đức Mẹ rốt cuộc còn mang số phận hẩm hiu hơn nữa!

 

  1. Khởi đầu Thế Chiến Thứ Ba Đức Mẹ nói “…Thành Paris sẽ ra tro. Marseille sẽ bị lấp chìm, nhiều thành phố lớn khác trên thế giới sẽ bị phá hủy, và biển chìm vì động đất. Khi đó người ta tin mọi sự sẽ tiêu tan…”

* Qua thời gian với sự nghiên cứu tỷ mỉ, chúng ta đã được biết ngày 02.01.1944 Chị Lucia đã viết Bí Mật này lên bằng “giấy trắng mực đen”, rồi niêm phong, trao cho ĐGM. Correia Da Silva với điều kiện rằng, bí mật này phải được công bố cho cả thế giới biết vào năm1960, theo đúng chương trình của Đức Mẹ. Chị còn bảo, nếu ĐGM. Sylva chết trước thời điểm đó, thì bí mật phải được ký thác cho ĐHY. Thượng Phụ Lisbon. Nhưng bất chấp giao ước với chị Lucia, Bí Mật Thứ Ba Fatima, không hiểu bằng cách nào, đã được trao cho Vatican và giữ kín suốt hơn 50 năm sau đó. Năm 1946, khi được hỏi, chị Lucia trả lời không chút lưỡng lự, chính Đức Mẹ bảo tới năm 1960 hãy công bố Bí Mật Thứ Ba. Rồi năm 1955, Đức HY. Ottaviani lại hỏi chị Lucia, tại sao không thể mở bí mật trước năm 1960? Chị Lucia trả lời lệnh của Đức Mẹ là chỉ mở Bí Mật Thứ Ba Fatima đúng vào năm 1960, vì thời điểm đó bí mật sẽ mang một ý nghĩa đặc biệt. Năm 1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã đọc Bí Mật Thứ Ba, nhưng ngài đã từ chối công bố nội dung của bí mật (?). Từ đó làm nảy sinh nhiều lời bàn tán và phỏng đoán về nội dung của Bí Mật Thứ Ba Fatima. Nhưng trong ánh sánh sự thật của Mẹ, chúng ta được biết mục đích Đức Mẹ chọn thời điểm năm 1960 để công bố Bí Mật Thứ Ba Fatima, vì đó là cẩm nang đặc biệt của Đức Mẹ – là Ánh Sáng Soi – là Sao Mai chỉ đường – Hướng dẫn Công Đồng Vatican II mở ra vào 2 năm sau đó (1962). Nhưng đáng thương thay, một quyền lực xấu đã áp đặt không cho công bố, khiến CĐ. Vat. II đã không hoàn toàn thực hiện đúng với ý muốn của Thiên Chúa và Đức Nữ Trinh trong việc bảo vệ giáo hội thời cận đại và cũng là Thời Cuối. Vì không được công bố, nên hầu hết các HY, GM dự hội nghị trong Công Đồng, đã không được biết nội dung Sứ Đệp của ĐM. Fatima. Và như thế thì liệu CĐ có đi đúng hướng Chúa Giêsu và Đ.Mẹ mong muốn không? Trong khi CĐ. Vaticanô II lại còn được mệnh danh là Công Đồng Đại Kết (ecumenical council). Biết đâu lại chẳng rơi vào âm mưu đen tối mà ĐM. La Salette đã cảnh báo về một Tôn giáo Toàn cầu. (Quí thính giả hoặc độc giả, nên nghe, hay đọc lại SVTT#41, số đặc biệt về Bí Mật Fatima). Vì Mẹ đã khẳng định là Tam Điểm đã có mặt khắp nơi, mà “Các vị tướng lãnh của Thiên Chúa đã bị quỷ lôi cuốn có nhiều vị đã bị rơi vào bè nhiệm và bắt tay với cộng sản.” (ĐB. 11). Chính trong ĐB. thứ 23, khi Đức Mẹ nói về khởi đầu Chiến tranh Thứ Ba “…Thành Paris sẽ ra tro. MARSEILLE sẽ bị lấp chìm, nhiều thành phố lớn khác trên thế giới sẽ bị phá hủy, và biển chìm vì động đất. Khi đó người ta tin mọi sự sẽ tiêu tan, vì người ta chỉ trông thấy giết, chỉ nghe thấy súng đạn và lời nguyền rủa xúc phạm đến Thiên Chúa…”.

– Năm 1962, cha André Althoffer có đặt câu hỏi: “Khi lưỡi gươm lửa của Thiên Chúa giáng xuống lần thứ nhứt, thì Công đồng Vatican đã bế mạc chưa?” Khi ấy Đ.Mẹ đã trả lời:

– Mẹ đã nói rằng Công Đồng chung sẽ định đoạt mọi sự, Công Đồng sẽ bế mạc hay không bế mạc. Nếu không bế mạc được là một điềm xấu, nhưng nếu bế mạc được và kết quả xấu là một điềm dữ hơn nữa (thuộc ĐB.23). Đức Mẹ còn nhấn mạnh: Tất cả có sau Công Đồng chung. Hiện nay Công Đồng là một biến chuyển của thời đại.

* Hồng Y Giuseppe Siri sau khi tham dự Công Đồng Vat. II xong, đã gọi bọn Hồng y “Tam Điểm” trong GH. là bọn cướp. Chúng là những kẻ đào mồ chôn Giáo Hội, tức là những kẻ giết chết Giáo Hội”. Chính vì thế mà hai lần được bầu làm Giáo Hoàng, nhưng Ngài đã không được lên ngôi (xin xem lại SVTT#40).

 

  1. Các lời tiên tri đều báo trước về thời kỳ đại khủng hoảng Đức Tin.

* Chúng ta cũng đã từng nghe Một thị kiến đầy kinh ngạc của Chân Phước Anne Catherine Emmerich, rằng: “Cuộc Đại Gian Nan bắt đầu bằng một bè phái bí mật làm suy yếu Giáo hội của thánh Phêrô, tiếp đến là có hai vị giáo hoàng, một người sẽ là tiên tri giả, xây dựng Giáo Hội lầm lạc, là sẽ gom tất cả các dị biệt và tín ngưỡng thành một”.

* ký giả Vittorio Messori tường thuật trên Nguyệt San Jesus trong số báo ra vào tháng 11. 1984 rằng ông có hỏi Hồng Y Ratzinger (Sau là G.H. Benedict XVI) về Bí Mật Fatima III thì Hồng Y đã cho Messori biết Bí Mật có chứa đựng hai lời tiên báo quan trọng về thời thế mạt như sau:

1) “ sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng Đức Tin rộng lớn: khắp nơi sẽ có những kẻ mất Đức Tin và bỏ Đạo kể cả những kẻ ở địa vị cao cấp nhất trong Giáo Hội”.

2) Nguy Cơ đe doạ sinh mạng của nhân dân toàn thề giới, cũng như về tầm quan trọng của những thời kỳ cuối.

* Ngày 13/10/1973, Sứ điệp tại Akita, Đức Giám Mục John Ito cùng Bộ Giáo Lý Đức Tin do Đức HY. Joseph Ratzinger đứng đầu, đã chính thức Công nhận ngày 22/4/1984. Đức GM. Ito cho biết, chính Đức HY. Ratzinger, người đã được đọc Bí Mật Thứ Ba Fatima, xác nhận rằng, về căn bản, sứ điệp Akita và Bí Mật Thứ Ba Fatima là một. Và đây là những lời đáng suy ngẫm Đức Mẹ đã ban cho thị nhân của Sứ Điệp Akita là Sơ Sasagawa như sau: “…Công trình của ma quỷ sẽ xâm nhập vào trong Giáo Hội, theo một cách thức mà người ta sẽ thấy các hồng y chống lại các hồng y, các giám mục chống lại các giám mục. Các linh mục tôn kính ta sẽ bị chế nhạo và chống lại bởi chính các anh em linh mục của họ. Các nhà thờ và bàn thờ sẽ bị phá hoại, Giáo Hội sẽ đầy rẫy những kẻ thỏa hiệp, và ma quỷ sẽ hối thúc các linh mục và các linh hồn đã thánh hiến từ bỏ việc phục vụ Chúa…”. Những gì Đức Mẹ nói trong Sứ Điệp Akita đến nay đã ứng nghiệm gần như 100%, kể cả chuyện Vatican đã và đang thỏa hiệp với Cộng Sản, với các tà giáo, bội giáo và lạc giáo, mà thỏa hiệp với CS là thỏa hiệp với bọn vô thần vậy. Theo đó thì Hồng Y Ratzinger đã nắm bắt hoàn toàn lời Đức Mẹ tiên báo khi ngài nói về “Một Công Đồng tác hại nếu được thực hiện sẽ xé nát Giáo Hội của Chúa Giê-su”. Vì chính trong ngày khai mạc 13.10.1962, và suốt thời gian của Công Đồng, một người không phải Hồng Y hay Giám mục được tham dự, chính là Linh Mục trẻ tài ba Joseph Ratzinger giữ vai cố vấn thần học, luôn đi bên cạnh Hồng Y Joseph Frings, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Đức Quốc.

* Tháng 3 năm 1990, Hồng Y Silvio Oddi xác nhận điều mà ngài và nhiều người khác tin rằng, Bí Mật Thứ Ba, Đức Mẹ đã cảnh báo chúng ta về một cuộc phản bội đức tin – apostasysắp xảy đến trong Giáo Hội và việc Đức Mẹ truyền phải công bố Bí Mật vào năm 1960 cho thấy rằng Bí Mật này có liên quan trực tiếp đến việc triệu tập CĐ Vaticano II. Và quả thật là như thế, những gì đang xảy ra ứng với Sứ Điệp Akita, cũng như Bí Mật Fatima, chính là một cuộc phản bội đức tin – một Apostasy – đang diễn ra.

* Cha Joachim Alonso, một chuyên gia sưu tầm, lưu trữ các dữ kiện ngài tìm được về Bí Mật Fatima, đã đúc kết nội dung Bí Mật Thứ Ba Fatima qua tác phẩm cùng tên của ngài rằng: Ma quỷ đã thành công trong việc đưa sự xấu vào trong Giáo Hội dưới vỏ bọc sự tốt, và kẻ mù loà bắt đầu dẫn đường cho mọi người”.

*** Trên đây chỉ là tiêu biểu cho những nguyên nhân khiến các chức sắc cao cấp trong Giáo Hội đã không tuân phục Lời của Đức Mẹ, không phổ biến những sứ điệp rất quan trọng, mà chính Đức Mẹ đã phải đích thân từ Trời xuống, với chỉ có một mục đích là muốn cứu nhân loại, vì Mẹ là Mẹ của cả nhân loại.

Không muốn Mẹ cứu nhân loại, không tuân phục và không vâng lời Đức Mẹ, cũng có nghĩa là ngăn cản, không muốn cho Trái Tim Mẹ Toàn Thắng, như Lời tuyên bố của Đức Mẹ ở Fatima, thì hẳn là những người đó đã đứng về phía đối lập với Đức Mẹ, và như thế là ủng hộ cho Satan.

Trên đây mới chỉ nói về chuyện giáo quyền không chịu phổ biến văn kiện đặc biệt Fatima của Đức Mẹ. Nhưng sau 50 năm kể từ 1960, với sức tấn công của truyền thông cả đạo lẫn đời, cuối cùng Ngày 26/6/2000, Vatican cũng đã công khai Bí Mật Thứ Ba Fatima, nhưng tiếc rằng Vatican đã lại phổ biến cách không trung thực!

  1. Người ta sắp phải bị đập bằng roi sắt, và uống cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (ĐB.10).

– Hai, phổ biến cách bất trung thực: Những điều Đức Mẹ đã muốn cho loài người ai cũng phải được biết, để họ chấn chỉnh cuộc sống, hầu hỗ trợ cho những lời tha thiết khẩn cầu của Đức Mẹ, hằng can ngăn bàn tay công thẳng của Chúa Cha! Hơn thế nữa, Mẹ đã từng khóc sướt mướt, khóc nhiều lắm! theo lời tường thuật lại của hai em bé Mélanie và Maximin, khi Mẹ từ Trời đến để nói hết sự thật, những gì sẽ xảy ra cho toàn thể con cái Mẹ biết mà sửa đổi. Cũng như từ Thiên Đàng, sứ giả của Đức Mẹ từng đã cho các thính giả trung thành với TGTL được biết “Đức Mẹ khóc cả thiên đàng đều biết”, mà lý do Mẹ khóc chỉ vì mỗi ngày Mẹ thấy nhiều linh hồn rơi vào hỏa ngục. Cũng chỉ vì người ta không được biết những Điềm Báo, những Cảnh Báo của Đức Mẹ, để mà dừng lại, kẻo cơn thịnh nộ của Chúa đã gần tới! Thế mà chính những người được Chúa ưu ái tuyển chọn, lại chỉ vì bảo vệ danh dự của mình mà phế bỏ những lời châu ngọc, quí giá của Đức Mẹ. Đó chính là thái độ kiêu căng trong vỏ bọc hiền hòa và khiêm tốn! Cho nên trong ĐB.14, Mẹ đã không ngần ngại tố cáo họ: “… Khốn cho các vị giáo quyền chỉ biết lo tích trữ của cải, chỉ biết lo đến quyền cao chức cả và cai trị một cách kiêu căng”.

* Khi nói về sự phổ biến bất trung, cha Paul Kramer đã chứng minh rằng, thủ bản của Bí Mật Thứ Ba mà Vatican công bố là giả mạo. Thủ bản của Vatican có những đặc điểm này:  dài 4 trang, 62 dòng, được viết theo định dạng notebook không có địa chỉ và chữ ký, trang viết không có lề… cha Kramer cho biết, trong cuộc họp báo ngày 11/2/1967 tại Học Viện Maria ở Roma, Đức HY. Ottaviani, Bộ Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin khi đó, đã chứng thực rằng, ngài đã được đọc Bí Mật Thứ Ba Fatima và nó được viết chỉ trong 1 trang mà thôi.

Chúng ta tự hỏi, Tại sao các ngài đã không làm những gì đáng phải làm, các ngài lại bịa ra một văn bản ai đọc cũng ngỡ ngàng, vì thấy chẳng có gì quan trọng hết cả, thế mà cũng bí bí mật mật suốt mấy chục năm qua! Lại còn kèm theo phần giải thích, đó là câu chuyện Thánh GH Gioan Phaolo Đệ II bị ám sát! Khôi hài ở chỗ là trong bản văn là một vị Giám mục áo trắng sau khi đi khắp nhiều thành phố, chứng kiến cảnh những người dưới mình bị đổ máu và bị chết nằm la liệt bên lề, còn vị GM. thì sau khi leo lên tới chân một cây Thánh giá trên đỉnh đồi, thì bị bắn chết, trong khi ĐGH được ám chỉ bị ám sát thì không những không chết, mà ngài lại chẳng đi đâu xa, chỉ ngay trong Thành Vatican, bên cạnh ngài cũng chẳng có ai bị đổ máu! Như vậy việc công bố lại còn tệ hại hơn là không công bố! Vì nó cho thế giới thấy một “Âm mưu lừa gạt”, nhưng lừa gạt một cách vụng về (1). (Xin mời quí vị vô trang Web của chúng tôi trong phần ghi chú sẽ gặp bài viết của Tiến sĩ George Weigel với tựa đề: “Những chuyện bây giờ mới kể về vụ ám sát Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” – Thời gian phát âm ở đây không cho phép chúng tôi kéo dài). Bây giờ, chúng ta phải trở lại với lý do ban đầu, như ở đầu bài, chúng ta đã thấy những dấu chỉ về một giáo hội mà chính Đức Mẹ đã phải than: “… dâm ô tội lỗi đã xâm nhập vào các dòng tu mà làm điều hỗn loạn. và dâm ô đang lan tràn khắp nơi trên mặt đất” (ĐB.8). Còn nhân loại nói chung cả đời lẫn đạo, thì Đức Mẹ bảo: “Xã hội ngày nay đang đứng bên cạnh những hình phạt gớm ghê và những biến chuyển kinh hồn, người ta sắp phải bị đập bằng roi sắt, và uống cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (ĐB.10). Và trả lời câu hỏi của cha Aldré Althoffer năm 1962 về ngay ĐB. thứ 1, Đức Mẹ đã bảo: “… Mẹ cho con biết thêm có lẽ Chúa sẽ dùng nước NGA làm cây roi của Chúa”. Nghe câu nói này của Đức Mẹ, chúng ta lại nhớ câu nói tương tựa như vậy của Đức Mẹ ở Garabandal nói với Conchita: “Khi CS lại đến thì mọi sự sẽ xảy ra”. Khi Đức Mẹ nói như thế, người ta phải hiểu là: Ngày mà nước Nga trở lại nguyên hình là cộng sản, Cộng Sản Nga sẽ (dùng vũ khí hạt nhân) để kết thúc chiến tranh. Chính nó là chiếc roi đánh phạt cả thế giới, mà hầu hết các nước Tây Phương trước kia theo Chúa, mà nay dẫn đầu thế giới bỏ Ngài đi theo tên dối trá và lừa bịp nhất lịch sử loài người, đến nỗi tất cả đều “đồng lòng phá bỏ, và làm chết đi tất cả những nguyên tắc Công Giáo (tức là phế bỏ các giới răn của Chúa), để thay thế bằng duy vật vô thần và các tà thuyết khác” (ĐB. 19). Chả thế mà từ trong thời Cựu Ước, T.Tr. Isaia trong thị kiến, tai đã nghe: “Tôi đã được nghe: Đức Chúa các đạo binh là Chúa Thượng; Đã quyết thi hành án tận diệt trên khắp mọi miền.” (Is 28, 22b); Rồi Khải Huyền Chương Sáu đã mô tả rất rõ điều Thiên Chúa làm, vì các ấn đã mở ra trong thời cùng tận; Cơn thịnh nộ Chúa rải xuống khắp trần gian. (Kh 6, 1-17). Kỳ tới, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu các Ấn sẽ do chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mở ra.

Xin hẹn gặp lại quí thính giả trong SVTT#54. Xin kính chào Quí vị trong An Bình của Đức Giêsu Kitô.

Ghi chú (1). Tiến sĩ George Weigel: Những chuyện bây giờ mới kể về vụ ám sát Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Dưới ánh sáng của các tài liệu mới trong tàng thư của các quốc gia cựu cộng sản, Tiến sĩ George Weigel, người viết tiểu sử vị Thánh Giáo Hoàng Ba Lan, vừa có một bài viết đăng trên First Things ngày 17 tháng Bẩy, 2019 liên quan đến vụ mưu sát Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây “The Quiet Hours of Leonid Brezhnev” – “Những giờ yên lặng của Leonid Brezhnev”.

 Leonid Brezhnev, Tổng Bí Thư của đảng Cộng sản Liên Sô từ ngày 14 tháng 10 năm 1964 đến 10 tháng 11 năm 1982, là kẻ chắc chắn phải chịu trách nhiệm rất lớn về cái chết của hàng triệu người dân Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc. Khác với các nhà lãnh đạo cộng sản đương thời, bất kể những thất bại về kinh tế trong khối Liên Sô, Brezhnev tin tưởng mù quáng vào cái gọi là “tính chất bách chiến bách thắng của chủ nghĩa xã hội” – một khẩu hiệu được bọn cầm quyền Hà Nội tâm đắc mua về bán lại cho nhân dân. Y thúc bách Hà Nội leo thang chiến tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, và tài trợ cho các phong trào cộng sản tại Afghanistan và Phi Châu; và dùng các cuộc chiến tranh này như một cái cớ biện minh cho những thất bại về kinh tế.

“Những giờ yên lặng” nói trong bài này là “yên lặng” chờ vụ ám sát vị Thánh Giáo Hoàng xảy ra.
Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt ngữ.

The Quiet Hours of Leonid Brezhnev

Những giờ yên lặng của Leonid Brezhnev.

Lần đầu tiên gặp Tiến sĩ Andrzej Grajewski, có lẽ bạn sẽ không nhận ra nhà sử học người Ba Lan có phong cách ôn hòa này lại là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về Bóng tối phủ lên Giáo hội trong thời Chiến tranh Lạnh: đó là cuộc tấn công không ngừng của cộng sản vào Giáo Hội Công Giáo. Nhưng anh ấy đúng là như vậy, và chuyên môn của anh ấy chủ yếu đến từ nhiều năm kiên nhẫn tìm kiếm thông qua các tập tin tình báo bí mật của Mật Vụ cộng sản. Một số những tập tin đó đã bị đốt vào năm 1989 (hoặc vẫn bị khóa ở Mạc Tư Khoa), nhưng nhiều tài liệu vẫn còn giữ được đến nay cho các học giả có thể tra cứu. Những nghiên cứu của Grajewski gần đây trong thế giới mật vụ thường bẩn thỉu này đặt ra một số câu hỏi thú vị về vụ ám sát Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 13 tháng 5 năm 1981.

Những gì chúng ta biết chắc chắn về vụ này?

Chúng ta biết rằng vào mùa thu năm 1979, Yuri Andropov, người đứng đầu cơ quan tình báo cao nhất, và tàn nhẫn nhất là KGB (cơ quan tình báo bí mật của Liên Sô) đã kết luận rằng Đức Gioan Phaolô II là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với hệ thống Sô viết, cả trong và ngoài đế chế Liên Sô. Và chúng ta biết rằng Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Sô đã ban hành một nghị định vào ngày 13 tháng 11 năm 1979, cho phép sử dụng “tất cả các phương tiện hiện có”, để khống chế các tác động mà chính sách của Đức Gioan Phaolô II đang đe dọa khối Sô viết.

Chúng ta biết tên thực hiện vụ ám sát, Mehmet Ali Agca, là một kẻ giết người chuyên nghiệp, bằng cách nào đó đã trốn thoát khỏi một nhà tù quân đội Thổ Nhĩ Kỳ ngay sau khi sắc lệnh năm 1979 nêu trên được ban hành. Y được đào tạo thêm trong một trại ở Syria do các cơ quan tình báo khối Sô viết điều hành. Chúng ta biết rằng, sau khi gặp một sĩ quan tình báo Liên Sô ở Tehran, Agca đã đến Bảo Gia Lợi với sự giúp đỡ của các cơ quan an ninh nước này và sống hai tháng trong một khách sạn sang trọng ở Sofia. Chúng ta cũng biết rằng vấn đề tài chính của Agca đã được quản lý bởi một người Thổ Nhĩ Kỳ, có liên quan đến các cơ quan tình báo cộng sản, là người sau đó đã chết trong một hoàn cảnh lạ thường không giải thích được.

Những gì chúng tôi không có là bằng chứng trên giấy tờ là phải chăng vụ ám sát Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã được thực hiện theo lệnh trực tiếp của Andropov, hoặc nhà lãnh đạo Liên Sô Leonid Brezhnev, hoặc cả hai. Nhưng chúng tôi biết rằng, mật vụ Bảo Gia Lợi vốn trung thành và lệ thuộc vào Mạc Tư Khoa đến mức đã ngần ngại không muốn thay đổi nhãn hiệu xà phòng trong các phòng vệ sinh của họ mà chưa có sự cho phép của Mạc Tư Khoa, chắc chắn không dám tự mình thực hiện một chiến dịch chống lại Đức Gioan Phaolô II.

Và bây giờ chúng ta biết thêm một số điều nữa, nhờ vào một cuốn lịch sử ba tập cực kỳ buồn tẻ về lịch trình hàng ngày của Leonid Brezhnev, được xuất bản ba năm trước ở Nga. Andrzej Grajewski đã cày xới những tài liệu này, tập trung vào các hoạt động của Brezhnev vào tháng 4 và tháng 5 năm 1981 (tức là ngay sau khi Agca, lúc đó đang ở Zurich, đã gặp một số nhân vật mờ ám để hoàn thành các thỏa thuận hậu cần và tài chính cho vụ ám sát, được ấn định vào ngày 13 tháng 5, 1981). Trong suốt thời gian trị vì của mình với tư cách là người đứng đầu thực tế của Liên Sô từ năm 1964 đến 1982, Brezhnev thường không tiếp xúc với Andropov, tên cầm đầu KGB. Nhưng mức độ dày đặc các cuộc họp của họ tăng lên đáng kể vào tháng Tư và tháng Năm năm 1981, cũng như tần suất các cuộc trò chuyện qua điện thoại của họ. Tại sao lại có sự tăng cường liên lạc đột ngột giữa thủ lĩnh Liên Sô và Andropov, vào thời điểm chính xác đó? Một người có đầu óc tỉnh táo và hiếu kỳ sẽ tự hỏi.

Chắc chắn người ta sẽ thắc mắc về lịch trình của Brezhnev vào ngày 13 tháng 5 năm 1981. Sáng hôm đó, Brezhnev đã gặp một phái đoàn từ Congo để ký một số thỏa thuận. Khoảng 1 giờ chiều, ông ta đến văn phòng của mình ở điện Cẩm Linh và làm việc một mình trên các tài liệu. Lịch trình cho thấy ông ta không gặp bất cứ ai trong suốt buổi chiều, và cũng không gọi điện cho ai. Ông ta đang chờ đợi điều gì? Chờ một tin tức đã được dự đoán trước? Sau 6 giờ chiều [giờ địa phương Mạc Tư Khoa], ngay sau khi Agca nổ súng tại quảng trường Thánh Phêrô, Brezhnev đã [hí hửng] rời điện Cẩm Linh để đến biệt điện của mình ở một vùng ngoại ô của Mạc Tư Khoa. Ngày hôm sau, ông ta gặp ngoại trưởng Liên Sô Andrei Gromyko tại điện Cẩm Linh, và vào ngày 15 tháng 5, có cuộc gặp gỡ với Yuri Andropov.

Kết luận cẩn thận nhưng rất gợi ý của Andrzej Grajewski:

Liệu một chuỗi các sự kiện như vậy có chứng tỏ rằng Brezhnev đã được thông báo về cuộc tấn công? Chúng ta không biết. Giả sử rằng ý tưởng ám sát vị Thánh Giáo Hoàng đã được nảy sinh trong giới lãnh đạo Liên Sô, Brezhnev chắc chắn phải biết khi nào nó sẽ xảy ra. Tất nhiên, hồ sơ về lịch trình làm việc của ông ta tại điện Cẩm Linh không phải là một bằng chứng không thể chối cãi trong vấn đề này. Tuy nhiên, lịch trình này chỉ ra rằng ngày 13 tháng 5 năm 1981 không phải là một ngày thường lệ đối với Brezhnev. Lịch trình của ông cho thấy, trong gần 18 năm ở đỉnh cao quyền lực, chỉ có một ngày, là ngày 13 tháng 5 năm 1981, là ngày mà sự chú ý của Brezhnev không bị thu hút bởi các hành động, những chỉ đạo, và công việc quản lý – nhưng có lẽ đang chờ đợi điều gì đó sắp xảy ra.

(Người dịch: Đặng Tự Do)