SỰ RA ĐỜI CỦA SÁCH LỄ MỚI
Tg: Lm. Joseph Paul Phạm Đức Hậu

Sách Lễ Mới (SLM) là kết quả của cuộc cách mạng phụng vụ do Vatican II khởi xướng… Vatican II thay đổi cái nhìn về phụng vụ, ắt phải dẫn đến việc thay đổi sách lễ cho phù hợp với cái nhìn đó. Vì vậy, ngay sau khi Vatican II kết thúc, GH. Phao-lô VI đã thiết lập một Uỷ Ban chuyên trách cho việc biên soạn SLM và sách nghi thức các bí tích…
… Người Tin Lành phủ nhận thánh lễ là hy tế thập giá của Chúa Giêsu. Bởi đó họ tuyên bố: “hình thức một cái bàn sẽ đưa những kẻ ngu ngốc cuồng tín thánh lễ Công Giáo về với nghi thức đúng đắn của Bữa Tiệc Ly. Việc sử dụng bàn thờ là để làm lễ hy sinh trên đó, còn việc sử dụng cái bàn là để cho người ta dùng bữa trên đó.” Thánh Robert Bellarmine đã bài bác lối trang trí trong đền thờ của những kẻ lạc giáo như sau: “khi chúng ta bước vào đền thờ của những kẻ lạc giáo, chẳng có gì ngoài một cái ghế cho người giảng và một cái bàn để dùng bữa, chúng ta cảm thấy như là đang bước vào một cái hội trường phàm tục chứ không phải là nhà của Thiên Chúa.”
Tất cả những lời nguyện hay lời đọc có ý hiểu thánh lễ như là một hy tế hay một hy lễ chuộc tội, đều bị loại bỏ, không đưa vào SLM. Tất cả những lời kinh nguyện trong thánh lễ có nại đến sự chuyển cầu của các thánh đều bị loại bỏ…
Lời nguyện linh mục đọc khi dâng bánh, rượu trong phần chuẩn bị lễ vật bị loại bỏ hoàn toàn, không còn minh nhiên nhắc đến ý nghĩa đền bù tội lỗi và sinh ơn cứu độ của lễ vật nữa. Thay vào đó là lời nguyện đơn giản trước bữa ăn của người Do-thái như ta thấy dưới đây:
Khi dâng bánh: SLM: “Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất, Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và công lao của con người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên bánh trường sinh cho chúng con.”
Sách Lễ Truyền Thống (SLTT): “Lạy Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin đón nhận bánh tinh tuyền này mà con là tôi tớ bất xứng của Cha dâng lên Cha là Thiên Chúa chân thật và hằng sống của con, vì muôn vàn tội lỗi, xúc phạm, và thờ ơ của con, vì mọi người hiện diện nơi đây cũng như mọi tín hữu, còn sống hay đã qua đời, ước gì bánh tinh tuyền này sinh ơn cứu độ cho con và cho họ cho đến cuộc sống muôn đời. Amen.”
Khi dâng rượu:
SLM: “Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất, Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con rượu này là sản phẩm từ cây nho và công lao của con người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên của uống thiêng liêng cho chúng con.”
SLTT: “Lạy Chúa, chúng con dâng lên Chúa chén cứu độ này, khẩn khoản nài xin lòng nhân từ Chúa cho chén cứu độ này được nâng lên trước tôn nhan Chúa như hương thơm ngào ngạt, vì ơn cứu độ của chúng con và của toàn thế giới. Amen.”
Lời nguyện linh mục đọc sau Kinh Lạy Cha cũng loại bỏ phần chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, các Thánh Tông Đồ Phê-rô, Phao-lô, An-rê, và toàn thể các thánh.
Phần lời cầu nguyện cho người Do-thái trong phụng vụ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh cũng bị thay đổi hoàn toàn tự bản chất. SLTT chúng ta đọc: “cầu cho những người phản bội Do-thái, để Thiên Chúa chúng ta cất đi màn che phủ lòng trí họ, ngõ hầu họ có thể nhận biết Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta.” Còn trong SLM lại đọc: “cầu cho người Do-thái, cha ông họ là những người đầu tiên được nghe lời Chúa phán dạy, xin Chúa làm cho họ ngày càng thêm lòng mến yêu danh thánh Chúa và trung thành với giao ước của Người”! SLM không còn cầu cho người Do-thái được ơn hoán cải tin theo Chúa Giêsu nữa. Trái lại, cầu cho họ cứ tiếp tục trung thành với giao ước cũ, cứ tiếp tục chối bỏ Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi.!!
Phần cầu cho những kẻ không tin, SLTT cầu nguyện cho họ với ý tưởng rõ ràng là cho họ được ơn hoán cải tin theo Chúa Giêsu. Xin Chúa giải thoát họ khỏi lầm lạc tôn thờ ngẫu tượng và liên kết họ vào gia đình Hội Thánh. SLM tách đối tượng “những kẻ không tin” này thành hai nhóm: nhóm ngoài Kitô Giáo và nhóm vô thần. Ý tưởng cầu nguyện cho hai nhóm này thiếu xác tín như trong SLTT: đó là ơn hoán cải. Với người ngoài Kitô Giáo, SLM cầu cho họ được dẫn vào đường cứu độ. Đường cứu độ đây là đường nào? Quá chung chung và không rõ ràng, bởi vì Vatican II nhìn nhận quyền tự do tôn giáo. Tự do tôn giáo đồng nghĩa với việc nhìn nhận các tôn giáo khác cũng là đường dẫn đến ơn cứu độ như đã nói ở bài trước. Với người vô thần, SLM xác nhận họ là những người tuy không biết Chúa, nhưng vẫn sống theo lương tâm ngay thẳng! Sách Giáo Lý ra đời năm 1992 do ảnh hưởng của Vatican II còn dạy: do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, bản tính con người đã bị hư hỏng, họ bị thống trị bởi sự chết, bởi lầm lạc và luôn hướng chiều về tội lỗi (GL 1992, số 417-418). Vậy mà ở đây, SLM khẳng định người vô thần, dù không biết Thiên Chúa, vẫn biết sống theo lương tâm ngay thẳng! Xét về bản chất, SLM không còn nhìn nhận những người ngoài Kitô giáo là những người lầm lạc về tôn giáo nữa. Do vậy mà ý muốn của lời nguyện thiếu xác tín mạnh mẽ như trước. Bởi vì có gặp được Chúa hay không thì những người ngoài Kitô giáo cũng vẫn biết “sống theo lương tâm ngay thẳng”. Vậy đâu cần phải tin Chúa làm chi. Chúng tôi cũng có chân lý mà!!
Giống như buổi phụng vụ Tin Lành được kết thúc bằng một phép lành, SLM cũng loại bỏ Tin Mừng Cuối Cùng và thay vào đó là phép lành cuối lễ.
Ta thấy, hầu hết những kiểu thực hành của phụng vụ Tin Lành như: dùng bàn có trải khăn thay cho bàn thờ, ghế chủ toạ hướng về cộng đoàn, sử dụng tiếng bản địa, tân nhạc, rước lễ bằng tay, rước lễ dưới hai hình, phép lành cuối lễ…tất cả những điều này đều được áp dụng trong phụng vụ thánh lễ của Giáo Hội Công Giáo sau Vatican II.
Ngoài những thay đổi như trên, một sự thay đổi căn bản và gây ra nhiều tranh luận về sự thành hiệu của Thánh Lễ, đó là thay đổi về lời truyền phép.

A. Thay đổi về lời truyền phép:
Lời truyền phép trong thánh lễ được gọi là Mô Thể – Công Thức Bí Tích (Sacramental Form) của Bí Tích Thánh Thể. Đây là những lời tối cần thiết cho việc thành sự của Bí Tích. Việc thành sự của Bí Tích Thánh Thể là bánh và rượu thực sự trở thành Mình và Máu Chúa.
Theo thần học bí tích của Giáo Hội dạy: “tất cả các bí tích được thành sự bởi 3 yếu tố gồm: chất thể (material)là các sự vật, mô thể (form) là lời đọc, và thừa tác viên (minister)cử hành theo như ý (intention) Giáo Hội làm; nếu thiếu một trong 3 yếu tố này, bí tích sẽ không thành sự.” (Denzinger, 695)
SLTT sử dụng Công Thức được Công Đồng Florence (1439) xác định như sau: “VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY (hoc est enim corpus meum); và: VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY, MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU, MÀU NHIỆM ĐỨC TIN, SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI (hic est enim calix sánguinis mei, novi et ætérni testámenti: mystérium fídei: qui pro vobis et pro multis effundétur in remissiónem peccatórum)” (Denzinger, 715).
Trong SLM, Công Thức trên bị thay đổi thành: VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY; và: VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY, MÁU GIAO ƯỚC MỚI, GIAO ƯỚC VĨNH CỬU, SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ MỌI NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI. (từ năm 2007, bản dịch tiếng Việt mới sửa lại thành: VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY, MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU, SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI).
(TGTL chú thích: Chúa chịu chết cho mọi người thật, nhưng chỉ những ai TIN vào Danh Người (Đức Giêsu Kitô) mới được cứu, cho nên không phải là cho mọi người. Vì gh. Francis thuộc trường phái thần học Giải phóng (cải cách), nên ông cho rằng Chúa Cứu Thế xuống cứu chuộc chỉ một lần là cho tất cả (mọi người), nên ông từng tuyên bố: “Vô thần cũng lên Thiên Đàng”.
Như vậy ta thấy, Công Thức trong SLM đã loại bỏ chữ “MÀU NHIỆM ĐỨC TIN” và thay chữ “NHIỀU NGƯỜI” bằng chữ “MỌI NGƯỜI”. Chỉ đến năm 2007, chữ “MỌI NGƯỜI” mới được sửa lại thành “NHIỀU NGƯỜI”. Bản dịch tiếng Anh năm 2011 cũng mới đính chính lại điều này: từ “FOR YOU AND FOR ALL” thành “FOR YOU AND FOR MANY”.
* Đức Pio V dạy, nếu lời truyền phép bị thay đổi, thì ý nghĩa cũng bị đổi thay, và hậu quả là bí tích sẽ không thành sự.
Do đó, việc SLM thay đổi công thức truyền phép như nói trên, đã gây ra nhiều hoài nghi về việc thành sự của Bí Tích Thánh Thể.
Ý nghĩa của chữ “MÀU NHIỆM ĐỨC TIN – mysterium fidei” mà Uỷ Ban Soạn Thảo SLM loại bỏ là gì? Nhiều chất vấn cho rằng, ai đã đưa chữ “mysterium fidei” vào công thức truyền phép? Chữ này không được Chúa Giêsu nhắc đến và các tác giả sách thánh cũng không thấy ghi lại.
– Đáp lại câu hỏi này, Đức Innocent III, trong thư Cum Marthae Circa trả lời cho Tổng Giám Mục John của Lyon ngày 29/11/1202, đã giải thích ý nghĩa của chữ “mysterium fidei” như sau: * “liên quan đến chữ “mysterium fidei” mà hiền đệ đang tìm tòi, có vài người nghĩ rằng đã tìm thấy bằng chứng củng cố cho sai lầm của họ, họ nói rằng, trong Bí Tích Thánh Thể, điều ta thấy đó không phải là Mình và Máu Chúa Kitô mà chỉ là một hình ảnh, một vẻ bề ngoài, một biểu tượng, vì chính Thánh Kinh đôi khi cũng nói những gì được lãnh nhận nơi bàn thờ là bí tích, là màu nhiệm và là hình bóng. Những người này đã sai lầm vì họ chẳng hiểu chứng từ của Thánh Kinh cách đúng đắn, cũng chẳng trân trọng đón nhận các bí tích thánh cho phải đạo, họ chẳng hiểu Thánh Kinh cũng chẳng biết quyền năng của Thiên Chúa (Mt 22, 29). Vậy, cụm từ “mysterium fidei” được dùng ở đây là bởi vì điều ta tin khác với điều ta thấy và điều ta thấy khác với điều ta tin. Điều ta thấy chỉ là vẻ ngoài của bánh và rượu, còn điều ta tin chính là thực tại thịt và máu Chúa Kitô, sức mạnh thực sự của tình yêu và sự hiệp nhất.” (Denzinger, 414)
Qua những lời trên ta thấy, cụm từ “mysterium fidei” (MÀU NHIỆM ĐỨC TIN) trong công thức truyền phép của SLTT là một quy chiếu rõ ràng về sự hiện diện đích thực (real presence) của Chúa Kitô trong phép Thánh Thể. Chính vì ý nghĩa của “mysterium fidei” liên quan trực tiếp đến sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong phép Thánh Thể, mà cụm từ này bị Thomas Cranmer (1489-1556) loại bỏ khỏi Sách Kinh Nguyện Anh Giáo 1549. Đáng tiếc là sai lầm của lạc giáo Cranmer lại được lặp lại trong cuộc cách mạng phụng vụ của Vatican II.
* Đức Pio V khẳng định, bất cứ một sự thêm bớt nào làm thay đổi ý nghĩa của Công Thức truyền phép, Bí Tích sẽ không thành sự.
Trong sắc lệnh De Defectibus, Đức Pio V viết: “những sai lầm về Mô Thể tức Công Thức có thể xảy ra khi có bất kỳ một thiếu sót nào liên quan đến những lời bắt buộc phải có cho việc truyền phép. Đây là những lời truyền phép làm nên Công Thức của Bí Tích này là: “VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY (hoc est enim corpus meum); và: VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY, MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU, MÀU NHIỆM ĐỨC TIN, SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI (hic est enim calix sánguinis mei, novi et ætérni testámenti: mystérium fídei: qui pro vobis et pro multis effundétur in remissiónem peccatórum). Nếu ai tinh giản, hoặc thay đổi Công Thức truyền phép này làm cho sự thay đổi đó không còn diễn tả cùng một ý nghĩa, bí tích sẽ không thành.” (De Defectibus, ngày 14/7/1570, #20)
Ngoài việc loại bỏ cụm từ “mysterium fidei”, nhiều bản dịch SLM trước đây, bản tiếng Anh và tiếng Việt, cũng thay cụm từ “SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI” thành “SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ MỌI NGƯỜI”. Việc thay đổi này tưởng như vô hại, nhưng thực ra nó cũng làm thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của Công Thức truyền phép. Tại sao lại dùng chữ “NHIỀU NGƯỜI” chứ không phải là chữ “MỌI NGƯỜI”? Thưa, lý do thứ nhất là bởi vì chính Chúa Giêsu đã dùng chữ “NHIỀU NGƯỜI” khi Ngài lập phép Thánh Thể (Mt 26, 28); lý do thứ hai là để nói đến hiệu quả của Máu Thánh Chúa. Giáo Lý Công Đồng Trent và Thánh Alphongso de Liguori đều dạy rằng: “cụm từ “CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI” được sử dụng là để phân biệt 2 khái niệm là giá trị và  hiệu quả của Máu Thánh Chúa. Máu Thánh Chúa có giá trị đủ để cứu chuộc mọi người, nhưng hiệu quả của Máu Thánh Chúa chỉ áp dụng cho một số người nào đó (chỉ những ai tin nhận mà thôi) chứ không phải cho tất cả.” [1]

B. Những phản ứng khi SLM ra đời:
Nhận định về SLM của Vatican II, Michael Davies viết: “mức độ SLM đi xa khỏi nền thần học về thánh lễ của Giáo Hội đã được xác định từ Công Đồng Trento có thể được đo lường cách chính xác nhất bằng cách so sánh những lời nguyện mà Uỷ Ban Soạn Thảo SLM đã loại bỏ với chính những lời nguyện đã bị loại bỏ bởi lạc giáo Cranmer. Sự trùng hợp không chỉ đơn giản là rõ ràng, mà là kinh hồn. Đó không thể nào là sự ngẫu nhiên được.”
Ngay sau khi SLM ra đời, Đức Hồng Y Alfredo Ottaviani (1890-1979) cùng với Đức HY. Antonio Bacci (1885-1971) đã nhận xét rằng: “Sách Lễ Mới (Novus Ordo) rõ ràng là không còn trình bày đức tin như Công Đồng Trento truyền dạy nữa… Trong toàn thể cũng như trong chi tiết, nó cho thấy một sự đi chệch rõ ràng khỏi nền thần học Công Giáo về thánh lễ đã được đóng khung trong phiên họp thứ 22 của Công Đồng Trentô. Những luật chữ đỏ (canons) của nghi thức thánh lễ đã được xác định dứt khoát vào thời kỳ đó, dựng nên một rào chắn không thể vượt qua, chống lại bất kỳ lạc giáo nào mưu toan tấn công sự toàn vẹn của màu nhiệm.”[2] Tiếp theo, hai Đức H.Y. đã bình luận định nghĩa về thánh lễ được nêu lên trong Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma Năm 1969 là mơ hồ tối tăm, là chân lý nửa vời hầu làm vui lòng những kẻ lạc giáo. Quy Chế 1969 định nghĩa về thánh lễ như sau: “Bữa Tiệc Ly của Chúa hay Thánh Lễ, là một cuộc hội họp thánh, hay một sự tụ họp của dân Chúa lại với nhau dưới sự chủ toạ của linh mục để cử hành cuộc tưởng niệm của Chúa.” Định nghĩa này bị coi là xúc phạm và gây nên phản ứng khắp nơi cho rằng Rôma đã cho ra đời một định nghĩa tuy ít lệnh lạc nhưng không nói lên điều gì so với định nghĩa tuyệt vời trước đây. Định nghĩa này đã bỏ qua hay chối bỏ 3 điểm giáo lý cốt lõi của thánh lễ:
Một là: chỉ duy linh mục, do tư cách tư tế của mình, có khả năng truyền phép.
Hai là: hy lễ đền tội của thánh lễ.
Ba là: sự hiện diện đích thực Chúa Giêsu trong phép ThánhThể qua sự biến đổi bản thể (transubstantiation).[3] Hai vị HY đã gửi những nhận định của mình cho Phao-lô VI. Nhưng mối quan tâm của các ngài bị làm ngơ.
Tiếp theo làn sóng phản ứng về SLM do cuộc cách mạng Vatican II đem lại, nhiều tập thể đã tuyên bố tẩy chay SLM và toàn bộ giáo thuyết của Vitican II. Tiểu biểu là Huynh Đoàn Thánh Pio X của Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre, các nhóm tự xưng là Công Giáo Truyền Thống (Traditionalist), các nhóm Sedevacantistcho rằng Vatican vẫn trống ngôi, không có Giáo Hoàng, kể từ sau cái chết của Đức Pio XII. Họ coi các Giáo Hoàng từ Vatican II trở lại đây đều mắc tội lạc giáo vì đã rao giảng giáo thuyết của Vatican II vốn bị các Công Đồng trước đây kết án là sai lầm. Và vì mắc tội lạc giáo nên các Giáo Hoàng tức khắc bị mất chức (GL 1917, điều 188, khoản 4). Ngoài ra còn có rất nhiều các nhóm và cá nhân khác cũng phủ nhận cuộc cách mạng trong giáo thuyết và phụng vụ của Vatican II. Điểm chung của tất cả các nhóm và cá nhân này là không chấp nhận giáo thuyết cách mạng của Vatican II: giáo lý mới, phụng vụ mới (Sách Lễ Mới và Sách Nghi Thức Các Bí Tích của Phao-lô VI), và giáo luật mới (1983). Họ vẫn trung thành dâng lễ và cử hành các bí tích theo nghi thức trước Vatican II. Họ tin rằng SLM đã không trình bày thánh lễ như là một hy tế thập giá, một hy tế đền tội, một sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trên bàn thờ, nhưng lại trình bày thánh lễ như một bữa ăn (super), một sự tưởng nhớ đến Chúa mà thôi (a memorial of the Lord). Do vậy, Lễ Mới chỉ là buổi phụng vụ Tin Lành chứ không phải là Thánh Lễ Công Giáo.
Nhiều cuộc nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu đã chứng minh rằng, cuộc cách mạng Vatican II và SLM đã dẫn đến sự sụp đổ của Giáo Hội Công Giáo tại Phương Tây. Sự sụp đổ này khủng khiếp đến mức có thể nhận thấy bằng giác quan: hàng trăm ngàn linh mục và cả giám mục đã rời bỏ hàng ngũ và hồi tục; hàng trăm ngàn tu sỹ nam nữ đã rũ bỏ áo dòng; số giáo dân đến nhờ thờ sụt giảm nhanh chóng; các nhà thờ, tu viện, và chủng viện ngày càng trở nên trống vắng hoang vu, trở thành nơi tham quan, bảo tàng, thậm chí là bỏ hoang! Việt Nam ta vì chậm áp dụng và chưa áp dụng triệt để giáo thuyết của Vatican II nên bề ngoài vẫn thấy lạc quan lắm. Tuy vậy, đời sống Giáo Hội bắt đầu lao dốc đi xuống trong những năm gần đây.
Theo linh mục George Henry Duggan S.M, triết-thần học gia người New Zealand, sự sụp đổ của Giáo Hội tại Phương Tây và đang lan rộng ra các miền khác của thế giới là do ảnh hưởng của Tân Duy Tân Thuyết (Neo-Modernism). Tân Duy Tân Thuyết đã xây dựng một tổng hợp mang tính hệ thống những sai lầm trầm trọng về thần học, triết học và Thánh Kinh để trình bày cho mọi người. Đáng tiếc, tổng hợp sai lầm này đã lùa được vào Vatican II. Tiền thân của Tân Duy Tân Thuyết là Duy Tân Thuyết – Modernism– mà Đức Pio X đã kết án nặng nề trong Thông Điệp Pascendi Dominici Gregis hồi đầu thế kỷ 20. Mục đích tối cao của Duy Tân Thuyết là uốn nắn đức tin Công Giáo cho phù hợp với ý thức hệ của con người thời đại.[4] Theo nguồn tin không chính thức, Gioan Phaolô I, vì chứng kiến những hậu quả khủng khiếp của cuộc cách mạng Vatican II và muốn tìm cách ngăn chặn và làm giảm tốc độ tàn phá của làn sóng cách mạng của Vatican II, đồng thời làm trong sạch hệ thống tài chính và nhà băng của Vatican. Vì những đường hướng mục vụ sai lầm như trên mà Gioan Phao-lô I bị đội ngũ giáo sỹ cấp cao bên cạnh, vốn là những kẻ do Tam Điểm gài vào, đứng đầu là Hồng Y Quốc Vụ Khanh Jean Villot, lên kế hoạch thủ tiêu. Kế hoạch ma quỷ của họ cuối cùng cũng hoàn thành. HY. Quốc Vụ Khanh Jean Villot là một Tam Điểm gộc, bí danh Tam Điểm là Jeanni, được khai tâm vào Quán Tam Điểm Zurich, Thuỵ Sỹ, ngày 6/8/1966.[5]

Kết Luận:
Như vậy có thể nói, Uỷ Ban Soạn Thảo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Phao-lô VI đã trao phó như đã nói phần trên: Đó là làm cho thánh lễ Công Giáo trở nên giống hơn với phụng vụ Tin Lành.! Phao-lô VI đã cám ơn các Mục Sư Tin Lành vì công sức đóng góp của họ cho công cuộc soạn thảo SLM! (coi hình bên).
Chúng ta hẳn không quên câu nói La-tinh nổi tiếng “lex orandi, lex credendi” có nghĩa là “luật cầu nguyện là luật đức tin – the law of prayer is the law of faith”. Tin sao thì cầu nguyện như vậy, nên lời cầu nguyện trong sách lễ là cách diễn tả tuyệt vời và chính xác nhất của đức tin Công Giáo. Một khi “luật cầu nguyện” thay đổi thì “luật đức tin” cũng đổi thay theo và ngược lại. Vatican II đã thay đổi “luật cầu nguyện” bằng việc cho ra đời SLM, điều đó chứng tỏ “luật đức tin” cũng đã đổi thay.

Sau gần 50 năm bị loại bỏ và lãng quên, ngày 7/7/2007, Benedictô XVI đã làm một việc “chớ chêu khó hiểu” đó là, ban hành Tự Sắc Summorum Potificum để phục hồi Thánh Lễ La-tinh Truyền Thống. Tự Sắc Summorum Potificumcho phép bất kỳ một “linh mục Công Giáo” nào, dòng hay triều, được phép sử dụng LTT theo Bộ Lễ 1962 sửa đổi của Gioan XXIII. Các linh mục được quyền cử hành LTT vào bất kể ngày nào trong năm, kể cả lễ tang và lễ cưới, ngoại trừ Tam Nhật Vượt Qua, mà không cần phải có phép của Toà Thánh hay Bản Quyền Sở Tại (Summorum Pontificum, các điều 2,5).
Việc Tự Sắc Summorum Pontificum giới hạn không cho dùng LTT trong Tam Nhật Vượt Qua khiến người viết giả định rằng: nếu LTT được sử dụng trong Tam Nhật Vượt Qua, không hiểu trong Phụng Vụ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Chúa sẽ có tai nào để nghe khi người dùng SLM thì cầu cho người Do-thái: ngày càng thêm trung thành với Giao Ước cũ, còn người dùng LTT lại: xin cho họ được hoán cải tin nhận Chúa Giêsu! Hai ý nguyện ‘chéo cẳng ngỗng’ như vậy thì làm sao Chúa nghe cho được!
Ngạn ngữ Pháp có nói: “cá thối từ đầu”. Người Việt chúng ta cũng nói: “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Và Chúa chúng ta đã dạy: “xem quả biết cây” (Mt 7, 20). Nhìn vào hoa trái của Vatican II, ta phần nào hiểu được cái cây Vatican II là cây gì? Cuộc cách mạng Vatican II đã thực sự đem lại điều gì cho Giáo Hội? Câu hỏi quá cao vời rộng lớn nên chỉ có Chúa mới có thể trả lời.
Tân Duy Tân Thuyết không những đã dẫn dắt CĐ Vatican II mà còn đang tiếp tục điều khiển và hối thúc Vatican hôm nay phải không ngừng sáng tạo để làm cho: Đức Tin Công Giáo trở nên tân thời hơn, phù hợp hơn với suy nghĩ của con người thời đại.
Cuộc cách mạng Vatican II có đúng đắn không? Những thay đổi trong giáo thuyết và phụng vụ của Vatican II có hợp pháp không? Những bài viết ở đây không nhằm mục đích đưa ra câu trả lời cho những vấn nạn đó. Mục đích duy nhất ở đây là trình bày cho mọi người thấy những bằng chứng không thể phản bác rằng: Vatican II đã đi xa và đi ngược lại như thế nào khỏi đức tin và giáo huấn truyền thống của Giáo Hội Công Giáo. Trong bối cảnh những cảnh báo Vatican II có phải là một Apostasy của thời kỳ cuối mà Thánh Kinh và Đức Mẹ đã cảnh báo không?

ĐGH. Phao-lô VI đã cám ơn các Mục Sư Tin Lành vì công sức đóng góp của họ cho công cuộc soạn thảo SLM! (coi hình trên).

Phần Ghi chú, chúng tôi xin mời quí vị vô trang mạng TGTL chọn Bài Đọc Thêm (3) để tham khảo.

——oOo——

THÔNG BÁO

Theo thông lệ tháng 12 là tháng Holiday của các ACE đặc trách Chương Trình TGTL (bao gồm các Ch.Tr. SVTT/của Mẹ Maria). Tuy nhiên, từ năm ngoái (2020) hầu hết các nơi trên Thế Giới đóng cửa vì nạn đại dịch Covid -19, đến nay tình trạng nhiều nơi vẫn còn như vậy, nên các ACE đã bỏ Holiday để tiếp tục thực hiện các chương trình của mình. Đặc biệt năm nay, một trong những biến cố đang xảy ra trong Giáo Hội là vào ngày 16/7 ĐGH. Francis ra Tông Thư dưới dạng Tự Sắc: “Traditionis Custodes” về việc đình chỉ ngay lập tức Tự Sắc Summorum Pontificum năm 2007 của Đức Bênêđíctô XVI và Tự Sắc Ecclesia Dei của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành năm 1988. Những Tự Sắc này được các vị tiền nhiệm của ngài đưa ra nhằm cho phép được cử hành nghi thức Thánh lễ trước năm 1970 (thường được gọi là Thánh Lễ Latinh Truyền Thống). Việc bãi bỏ hôm nay đang gây ra nhiều dư luận trái chiều trong Giáo Hội. Chúng tôi xin dùng thời gian của tháng 12 năm nay để quí thính giả & các bạn trẻ của Chương Trình TGTL có thể thấu hiểu về sự khác biệt giữa Thánh Lễ Truyền Thống & Thánh Lễ Mới (Novus Ordo), hầu mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích hơn trong sự hiểu biết về Tâm Linh bây giờ và về sau. Trong chiều hướng đó, các bài về TGTL & SVTT sẽ được phát trở lại vào Chúa Nhựt đầu năm mới.
XIN TRÂN TRỌNG THÔNG BÁO

——oOo——

ACE trong Chương Trình TGTL trân trọng kính chào quí thính giả và các Bạn Trẻ.
Chúc quí vị & các Bạn một tuần lễ An Bình trong Thiên Chúa và Mẹ Maria.

Ghi Chú:
[1]St. Alphongsus de Liguori, Treatise on The Holy Eucharist, Redemptoris Fathers, 1934. Trang 44
[2]Alfredo C. Ottaviani, The Ottaviani Intervention: Short Critical Study of the New Order of Mass (Rockford, Ill.: Tan Books & Pub, 1992), 28
[3]Ottaviani, The Ottaviani Intervention
[4]http://www.montfort.org.br/old/index.php?secao=veritas&subsecao=igreja&artigo=colapso_da_igreja&lang=eng
[5]Paul L. Williams, The Vatican Exposed: Money, Murder, and the Mafia (Amherst, NY: Prometheus Books, 2003), 149–161.
By Lm. Joseph Paul Phạm Duc Hau