1. Các nhà nghiên cứu về Thần Giao Cách Cảm từ từ khám phá ra những động cơ khiến cho tâm linh bén nhậy về cảm giác đặc biệt này.

Như trong số trước chúng tôi đã định nghĩa TGCC là một khả năng đặc biệt có thể truyền và nhận tư duy tình cảm, hay ý nghĩ từ xa, mà không thể dùng những giác quan thông thường. Từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay, các nhà nghiên cứu tâm linh đã có thể đưa ra những nhận xét sau đây:

*a) Khả năng nguyên thủy, hồi quy: Nhà tâm lý học Sigmund Freud, cho biết là ông cảm nhận được hiện tượng này thường xuyên, và ông gọi đây là khả năng nguyên thủy, hồi quy, đã bị đánh mất trong tiến trình tiến hóa, nhưng vẫn còn khả năng thực hiện trong một số điều kiện, khiến nó tìm lại được khả năng đó của thời xa xưa (hay thời nguyên thủy). Thượng Đế ưu tiên dành cho con người bán khai, chưa có khả năng tiến bộ để phát minh ra các phương tiện rút ngắn không gian, thời gian như bây giờ, chẳng hạn xe cộ, tàu thủy, nhất là máy bay, thì người cổ vẫn có thể liên lạc được với nhau bằng TGCC. Cũng có thể Freud có lý vì là người Công giáo chúng ta tin rằng: Thiên Chúa là Tình Yêu, nên từ trong bản chất Ngài sẽ bù đắp vào những thời kỳ, hoặc những nơi khiếm khuyết mặt này, thì được bồi đắp về mặt kia. Ta cứ suy từ câu Chúa nói: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý hơn chúng sao?” (Mt 6,26). Chúng ta cứ quan sát cuộc sống những người mù, thì biết là Thượng Đế lại cho họ những giác quan khác có sự linh mẫn và bén nhậy hơn cả chúng ta là những người mắt còn sáng!

*b) Chức năng của tính đồng bộ: Chuyên gia tâm thần Carl G. Jung cho rằng đây là chức năng của tính đồng bộ. Cắt nghĩa điều này tôi cho rằng nếu hai người cùng đảm trách một công việc thuộc tâm linh, thì dù hai nhân vật hoàn toàn khác nhau: bên kia là linh hồn, bên này còn vướng bận thể xác, thì sự truyền thông và tâm giao vẫn dễ dàng.

*c)  Nghiên cứu một cách khoa học: Năm 1885 Hội nghiên cứu tâm linh Mỹ đã làm cho TGCC trở thành một hiện tượng tâm linh đầu tiên được nghiên cứu một cách khoa học. Những thí nghiệm ban đầu rất đơn giản, là người ở phòng bên này chỉ gửi cho người ở phòng bên kia một cặp số bất kỳ; Hình ảnh thị giác, hoặc mùi vị.

*d) Độc lập với thuật thôi miên & Bằng vào những khả năng may rủi: Nhà sinh lý học người Pháp Charles Richet phát hiện ra rằng TGCC diễn ra độc lập với thuật thôi miên. Bằng vào những khả năng may rủi, thí nghiệm có vẻ mang lại kết quả nhiều hơn. Kết luận của ông đã được những nhà Duy linh thuyết đem thực hành sau thế chiến I, và những người có thân nhân chết trong thế chiến này, đã cố gắng giao tiếp với người chết. Trò chơi TGCC trong phòng khách vì thế đã phổ biến cho số đông ở Mỹ và ở Anh.

 

  1. Càng ngày hiện tượng Thần Giao Cách Cảm càng được chứng minh rõ ràng hơn về sự hiện hữu của nó trong cuộc sống đại chúng. Những giấc mơ kỳ lạ trong đời.

*e) Các tình huống nguy kịch hay khủng hoảng: Charles Richet càng nổi tiếng hơn, khi ông chứng minh được rằng TGCC thường xảy ra cách tự phát trong các tình huống nguy kịch hay khủng hoảng bất ngờ. Nhiều người ở nhà mà nhận biết được sự nguy hiểm xảy ra cho thân nhân mình từ xa. Không cứ gì những chuyện xảy ra trong chiến tranh bên Âu, Mỹ, trong 20 năm chiến tranh Quốc – Cộng ở VN, nhiều chuyện về TGCC được ghi nhận là thực, khi con, hoặc chồng ngã xuống ngoài trận địa, thì ở hậu phương nhiều bà mẹ già, hoặc những người vợ hiền linh cảm được chuyện xảy ra và biết con hoặc chồng mình đã ngã gục ngoài tiền tuyến. Thông tin đến từ nhiều cách: Có thể là từ những phân mảnh suy nghĩ “có vấn đề gì đó không tốt”; Linh tính của một sự nóng lòng, sốt ruột; Cũng có thể là một hình ảnh tương tựa với chuyện sắp xảy ra cũng có, mà đã xảy ra cũng có, cho người thân trong giấc mơ của mình. Nghe trong TGTL chắc các bạn còn nhớ giấc mơ của Huệ Trinh khi ở đảo Galăng trên đường đi tỵ nạn, khi chú em chồng (Trọng Nha) ở nhà bị chết, linh hồn chú liền báo cho chị dâu, để chị cầu nguyện cho. Ngày Huệ Trinh và các con tôi đi tìm Tự do bình an tới đảo, lúc đó tôi còn trong cải tạo cũng nhận được tin nàng trong giấc mơ. Nàng đến với tôi trong bộ đồng phục áo dài đen, quần dài đen. Tôi tỉnh dậy trong sự hốt hoảng, nhưng để ý đến màu sắc thì có chút an tâm, vì người chết về báo tin bằng đồng phục trắng, thường là áo dài trắng lê thê không thấy bàn chân, dù là Đông phương hay Tây phương. Như vậy Charles Richet nói đúng! TGCC không chỉ báo tin buồn, mà cũng có khi báo tin vui, nghĩa là cả may lẫn rủi. Trong đời tôi chỉ có ba giấc mơ đáng nhớ thì lần đó là một.

*f) Hình ảnh tiên báo trong giấc mơ: trong Khoảng một tháng trước khi Miền Nam mất vào tay CS, có một đêm gần sáng trong giấc mơ, tôi nhìn thấy rất rõ phía chân trời bao la hình ảnh hai con thú rất lớn chiếm phần ba bầu trời. Hai con vật cắn xé vật lộn đánh nhau dữ dội. một con giống như gấu lưng gù, nhưng có sừng; Một con vừa giống Sư Tử, vừa dài lưng giống hổ. Hai con vật màu đen trên nền trời rực lửa máu. Khi tôi giật mình thức dậy thì vẫn chưa có con nào chết, và cuộc chiến chưa phân thắng bại. Vì vậy mặc dù mất miền Nam, lúc nào tôi cũng nghĩ giấc mơ ấy cho thấy cuộc chiến giữa Tự Do và Cộng Sản vẫn chưa chấm dứt. Ngày nay thì rõ ràng CS tuy thắng trên trận địa, nhưng đang thảm bại về lòng dân! Nghĩa là đã nhiều năm: Gần 70 năm ngoài miền Bắc và hơn 40 năm trong miền Nam, chưa lúc nào CS thắng được lòng dân. Người xưa từng nói: “Chiếm được thành chưa phải là thắng, chiếm được lòng dân mới là chiến thắng thật sự”. Đọc Nguyễn Ngọc Già trong báo DânLuận, ông viết: tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức cho thấy “toàn bộ người dân từ Nam chí Bắc mới ra nông nổi ngày nay!!!”. Theo Đại tá Hải quân Hoa Kỳ: Nguyễn Từ Huấn (ông chính là cậu bé 6 tuổi được cứu sống trong khi toàn thể gia đình bị cộng sản giết chết hồi Tết Mậu Thân năm 1968. Cha ông là Cố Đại Tá Nguyễn Tuấn, và Ông gia nhập Quân Đội Hoa Kỳ, để theo con đường tiếp tục góp phần cho một Việt Nam tự do). Ông cho biết chính nhờ công của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà cộng sản đã bị chặn đứng ở Việt Nam, không lan ra các nước Asean và CS đã bị giải thể tại Đông Âu và Nga Sô”. Như thế thì CS bắc Việt chẳng may được lợi thế trong một ván cờ, mà chính CS quốc tế bị thua, chứ không phải là họ đánh thắng. Trong Từ Điển Danh Ngôn VN có câu: “Thế giới này không phải người đúng là người thắng, mà kẻ thắng cuộc là kẻ đúng”.

*g) Báo hiệu tin vui: Giấc mơ thứ ba ở trong tù CS, chính là giấc mơ báo hiệu những ngày khốn khó và tăm tối của đời tôi sắp qua. Tôi được báo cho biết từ nay sẽ là những ngày đi trong bình minh nắng gội, đầy ánh sáng huy hoàng của hạnh phúc. Giấc mơ đưa tôi đi đến một phương trời thật huy hoàng. Giòng nước dưới chân, đưa tôi đi không có chỗ nào lún sâu tới đầu gối, chỉ ướt lưng ống quyển. Tôi thảnh thơi bước đi giữa một vùng trời, mây, nước chung quanh đầy những cá vàng, cá đỏ, cá bạc bơi nhởn nhơ, chúng cũng không sợ tôi bước trúng hay đụng phải. Tôi nhìn lên bầu trời, nếu là chim thì không lạ, nhưng cũng lại toàn cá vàng, cá đỏ bơi rong ruổi trên đám mây bạc lơ lửng giữa trời xanh. Cả bầu trời rực sáng. Tôi vừa thong thả đi, vừa ngắm cảnh trời mây non nước tuyệt vời. Tỉnh dậy, tôi tiếc ngẩn, tiếc ngơ một giấc mơ đẹp, chưa từng bao giờ được nhìn thấy trong đời! Mà nhìn thấy sao được, vì có bao giờ cả một rừng cá vàng đẹp như thế bơi lội được trên không trung là bầu trời? Sau giấc mơ đêm ấy chỉ vài ngày sau tôi được báo có giấy ra trại, rồi từ từ là các tin vui, kể cả chuyến đi vượt biên trên biển êm ả, và chuyện đoàn tụ gia đình. Có lẽ cảnh đi dưới nước ứng nghiệm vào chuyến đi vượt biên của tôi trên biển, vừa dễ dàng vừa là Chúa, Đức Mẹ đưa tôi đi, chứ ở tù vừa ra, tôi làm gì có tiền, có vàng, trong khi vợ con tôi đã đi cả rồi!

 

  1. Các hiện tượng thâu nhận năng lực thần giao bén nhậy.

TGCC không chỉ ứng nghiệm như trong giấc mơ, đôi khi báo bằng ảo giác cũng có, hoặc bằng những hình ảnh hiện lên trong tư tưởng, những âm thanh nghe rất rõ, và cả bằng từ ngữ đột nhiên hiện ra trong tâm trí. Cá nhân có thể bị thôi thúc phải hành động, tỉ như bất thần quyết định thay đổi chuyến đi, hoặc linh cảm bất thần khiến chủ nhân quyết định không tiếp xúc với một người nào đó. TGCC ở tuổi già cũng khá phổ biến, có lẽ vì các giác quan trong cơ thể giảm sút, thì cảm nhận tâm linh phát triển lên hơn, giống như trường hợp những người khuyết tật, như người khiếm thị đã nói ở trên. TGCC cũng xảy ra bằng cách biểu kiến cho cả loài động vật khôn như chó, ngựa. Chúng được linh ứng như nhìn được sự hiểm nguy đang đợi chờ phía trước, và chúng hí, hay sủa lên một cách rất ngỡ ngàng, nhất định cản trở không cho chủ tiến thêm về phía trước! Đa số các nhà nghiên cứu TGCC đều cho rằng phụ nữ thường liên kết cảm xúc với trực giác cách mật thiết hơn nam giới, nên năng lực thâu nhận các hiện tượng tâm linh nơi họ thường bén nhậy, và mang lại kết quả nhiều hơn nam giới trong công việc thí nghiệm này. Tuy nhiên, đã gọi là khả năng đặc biệt thì nó cần phải có những điều kiện đặc biệt, chứ không phải hết mọi trường hợp nói trên đều có thể thực hiện được, như phụ nữ, người già, hay cơ thể yếu đuối hoặc người tật nguyền.v.v… William Crookes, một nhà hóa học kiêm vật lý người Anh cho rằng TGCC nằm trên sóng não giống như vô tuyến.

Bởi vậy, trong lúc gởi và nhận tin bằng Thần giao cách cảm, thì điện não đồ cho thấy sóng não của người nhận thay đổi theo sóng não của người gởi, và thể tích máu bị thay đổi. Cũng vậy, nhà khoa học người Nga L. L. Vasiliev đưa ra thuyết điện từ.

Lawrence Le Shan nhà Tâm lý học Mỹ lại cho rằng mỗi người đều có thực tại của riêng mình.

 

  1. Các nhà tâm linh huyền bí được xem là mỗi người đều có thực tại riêng, Khoa học không thể cắt nghĩa. Nhất là khi họ tiếp nhận thông tin từ các Đấng linh thiêng.

Bởi thế các nhà tâm linh và huyền bí chia sẻ các thực tại khác nhau giúp họ có khả năng tiếp cận thông tin mà người khác không thể. Ở đây chúng tôi xin đưa ra một nhân vật điển hình là Thánh Nữ Têrêsa Avila (xin nhớ là khác với Thánh Têrêsa Lisieux, là người thường được mệnh danh là Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

* Thánh Têrêsa Avila thuộc dòng dõi quí tộc, sinh ngày 28.3.1515 ở thành Avila. Năm lên 15 Têrêsa đã bị mất mẹ, ngài lớn lên trong sự bệnh hoạn ốm yếu, năm 20 tuổi Têrêsa chỉ muốn đi tu, nhưng  cha rất cưng chiều, và không muốn nàng đi tu, sau thì nàng phải trốn nhà đến Tu viện Cát Minh tức Dòng Kín Camelo, khi ấy thì ông bố không còn cấm cản nữa! Sống trong tu viện, cơ thể Têrêsa ngày càng ốm yếu hơn. Năm 23 tuổi nàng lâm trọng bệnh. Thời gian bệnh này có lúc nàng bị hôn mê, tưởng chừng như chết đi tới ba ngày sau mới tỉnh dậy và tự nhiên lại sức. Sau này Têrêsa luôn bảo rằng Thánh Giuse đã chữa mình khỏi bệnh. Năm 42 tuổi Têrêsa nhìn được nhãn giới và mạc khải. Hai năm sau đó Têrêsa lại có cảm giác xuất thần, nhưng lần này nàng cảm thấy thoát ra khỏi chính mình, rồi từ đó liên tục nhận được những cảm giác thần bí, kể cả việc được Chúa Giêsu hiện ra ngay bên cạnh. Cũng có lần nàng nhìn thấy cảnh tượng hỏa ngục, thậm chí còn nhìn thấy quỉ Satan, nàng đã đuổi và mắng nó là đồ ngốc. Nói là được chữa bệnh, nhưng cơ thể Têrêsa thường xuyên ốm yếu, và nàng cũng cầu xin được chịu sự ốm yếu đó, để cảm thông với nỗi đau khổ của Chúa, và khi ấy thì nàng xem là “Hạnh Phúc Thần Thánh”. Năm 1562, Têrêsa 47 tuổi, ngài bất chấp sự phản đối, đứng ra thành lập một nhà tu kín cũng ở Avila với các quy luật nghiêm nhặt hơn. Năm 1567 tức chỉ 5 năm sau ngài được phép mỡ thêm 18 tu viện nữa và dành trọn một đời để cải cách dòng Cát Minh. Ở tuổi 53 ngài gặp John Yepes 26 tuổi (Sau là Thánh Gioan Thánh Giá). Gioan được ngài khuyến khích cải cách các tu viện Cat Minh dành cho nam giới. Sức khỏe ngày một yếu dần, ngày 04.10.1582 Têrêsa mất (ngay ngày hôm sau lịch Gregorian có hiệu lực, nên ngày mất của Thánh nữ đổi thành ngày 14.10.1582), năm ấy Têrêsa 67 tuổi. Ngài được ĐGH. Gregorio phong Thánh năm 1662. Năm 1970 ĐGH Phaolo VI tuyên dương danh hiệu Tiến sĩ Hội Thánh. Chính trong sự đau yếu, Têrêsa Avila được ơn Thần Linh để viết sách. Trong cuốn tự truyện “Life” viết năm 1565, Têrêsa có kể lại cuộc hôn nhân Thần Thánh với Đức Giêsu Kitô trong tư cách chú rể Tâm hồn, và Thánh nữ cho biết kết quả của cuộc hôn nhân đó đã cho ngài tư tưởng rất phong phú để sáng tác. Ở đây chúng tôi chỉ chú trọng tới cuốn sách nổi tiếng nhất của bà là cuốn “The Interior Castle” viết năm 1577. Sách trình bày giáo điều tâm linh trong lâu đài, là biểu tượng cho đời sống nội tâm, trong đó Têrêsa được mạc khải thị kiến thấy một lâu đài hình cầu bằng thủy tinh ngay trong đêm trước Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi. Lâu đài gồm 7 phòng. Người ta phải đi qua các phòng: Khiêm tốn, cầu nguyện, suy ngẫm, tĩnh lặng, Thiên khải và Đêm đen rồi mới tới được phòng thứ Bảy ở giữa là nơi ở của Vua Vinh Quang và cũng là chú rể Thiên Đàng.

Dưới thể thức của đề tài, chúng tôi muốn nói tới khả năng tiếp cận Tâm linh huyền bí của Thánh nữ Têrêsa Avila là một đặc tính có sắc thái riêng, đó là tính cách vượt ra khỏi cuộc sống bình thường, căn cứ vào những tác phẩm bà viết. Tính cách ấy khởi đi từ cuộc sống chiêm niệm thường trực. Chính sự “Tập trung cầu nguyện” đã mang lại cho Têrêsa sự linh hứng kỳ diệu đến nỗi ngài gọi là sự cảm nhận được từ trong tâm linh một “Quyển Sách Hằng Sống”. Tất nhiên, Hội Thánh còn có nhiều vị khác cũng đặc biệt, chẳng hạn như trường hợp Thánh nữ Catharina De Siena cũng là một nhân vật Thần bí. Catharina được sinh ra trong một gia đình rất đông con nhà nghèo thất học, nhưng lại đọc một cách thông minh và sáng suốt cho thư ký viết cuốn thần học kỳ diệu. Đó là cuốn “Đối thoại về Chúa quan phòng”. Một cuốn sách chứa đựng những tư tưởng siêu việt về thần học. Thánh nữ Cathérine có tới 400 lá thư gửi cho các nhà lãnh đạo Âu Châu là các vua chúa thời bấy giờ, kêu gọi họ thần phục Giáo Hoàng bằng các lý lẽ sắc bén. Trong đó cũng có những lá thư gửi cho ĐGH Gregorio XI là vị giáo hoàng đã rời tòa về Avignon (nước Pháp). Ngài đã làm cho giáo hoàng phải trở lại Rôma, là sứ giả hòa bình về các mối tranh chấp, một nhà thuyết phục đại tài. Catharina còn được ơn thấu suốt các tâm hồn, những ai tiếp xúc với ngài. Ngài cũng được vinh dự là Tiến sĩ của Hội Thánh. Trong cuộc sống, CaTharina là một nữ nhân thường xuyên đau yếu. Ngài mang chứng bệnh thần bí không tên, đó là niềm đau được in năm Dấu Thánh nhưng không ai thấy. Năm dấu Thánh chỉ xuất hiện sau khi chết, năm ấy Thánh nhân tròn 33 tuổi, cùng tuổi với Chúa Giêsu. Ngài cũng có  một cuộc hôn nhân thần thánh với Đức Giêsu và được Chúa Giêsu xỏ nhẫn trước sự chứng kiến của Đức Mẹ. Nhưng chúng ta không đề cập thêm nữa ở đây, mà chỉ nhìn vào yếu tố TGCC trong tâm linh.

Về phương diện này, chúng ta chỉ có thể đồng ý kết luận như Lawrence Le Shan Tâm lý gia người Mỹ là: Các nhà tâm linh và huyền bí chia sẻ các thực tại khác nhau, giúp họ có khả năng tiếp cận thông tin mà người khác không thể. Nhất là khi tiếp cận thông tin từ các Đấng Thần linh. Ngoài ra không ai có thể cắt nghĩa hay giải thích theo một phương pháp bất kỳ với những đòi hỏi nghiên cứu bằng khoa học! Một thí dụ điển hình và rõ ràng nhất là sự kiện sau ngày lễ Ngũ Tuần, các Thánh Tồng Đồ đã từ là những con người chỉ biết nghề chài lưới, nhút nhát, sợ sệt, nhưng chỉ trong phút chốc các ngài trở nên khôn ngoan và mạnh mẽ, tung cửa ra đường giảng dậy và làm chứng cho mọi người về Đức Giêsu Kitô – Đấng đã lấy Mình làm của lễ hy sinh để cứu chuộc tất cả những ai tin vào Ngài – Đấng ấy đã Sống lại, lên Trời –  và hứa sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và người chết.

 

  1. LH. Một người ông đã được về chỗ Chúa, nhưng dạy các cháu “Đừng ngưng cầu nguyện, hay ngưng làm các việc lành. Phải nhớ tới các LH còn đang ở trong chỗ tối. Phải nghĩ tới những người kém may mắn, nhất là những ai đang đau khổ cách này, hay cách khác!

– (Th): Cháu xin hỏi cô chú còn gì muốn hỏi nữa không ạ?

– (Tr): Cô làm ơn tìm giùm LH. Ông họ của tôi là LM. Giuse Nguyễn Sinh Tiệp trước đây cô đã biết, không biết giờ này ngài đã được vui chưa?

– (Th): Cô để cháu đi tìm xem ngài có cần gì nữa không ạ! (một ít giây gián đoạn như thường lệ): Cháu đi tìm và được biết ngài đã về chỗ Chúa. Ngài bảo cháu nói với gia đình là không phải cứ hễ LH đã được về chỗ Chúa rồi là ngưng cầu nguyện, hay ngưng làm các việc lành. Các cháu đời sống đã được Chúa cho sống vui, sống hạnh phúc, thì lúc nào cũng phải nhớ tới các LH còn đang phải ở trong chỗ tối, hay chưa được về chỗ Chúa. Hơn nữa, khi đời sống các cháu đã được mọi sự tốt đẹp, thì luôn phải nghĩ tới những người kém may mắn, nhất là những ai đang đau khổ cách này, hay cách khác! Cô chú! Cha chỉ nhắn gửi qua cháu  bấy nhiêu thôi!

– (T): Cô Thủy ơi, cha nói được về chỗ Chúa, tôi xin hỏi: Vậy các danh từ chỉ nơi chốn: “về chỗ Chúa”, chỗ sáng, hay được vui, có khác biệt nhau gì không?

– (Th): Cũng có chứ! Cháu thí dụ chỗ vui thì có nhiều cách để biết được vui, song cháu không nói được! Còn chỗ sáng thì không còn phải sống trong cảnh lạnh lâu, hay nóng lâu, điều này thì phải về mới biết được, mà chú thì còn phải làm việc nên chưa về được! Khi nào về cháu sẽ dẫn chú đến ngay.

– (T): Thôi tôi biết cô lại giỡn rồi!

(Xin mời quí vị và các bạn nghe tiếp câu chuyện vào kỳ tới)