Thánh Maximilian Maria Kolbe viết trong thư: “Chúng ta không phải vâng phục, khi bề trên truyền làm một điều rõ ràng vi phạm luật Chúa. Dầu là một vi phạm rất nhỏ, thì lúc đó Bề trên không còn là người chuyển đạt ý Chúa một cách trung thực nữa”.
(“Kinh Sách Các Bài Đọc”, trang 537, XB. năm 1999).
TGTL#212 cho thấy các các tà thuyết Đức Mẹ nói trong Sứ Điệp 485 qua cha Stefano Gobbi rằng “Chúng do những bậc thầy bất chính, bởi những nhà thần học nổi tiếng làm cho Đức Tin chân thật đang biến mất dần, và tình trạng bội giáo đang phổ quát mọi nơi”, là tổng hợp một nhóm lạc thuyết: Duy Tân Thuyết, Trào lưu Thần Học Mới, bao gồm: Tư Tưởng Hiện Đại, Học Thuyết Xã Hội Dân Chủ; Rồi Học Thuyết Tiến Hóa Cấp Tiến; Thần Học Giải Phóng (THGP); và cuối cùng là Thuyết Tương Đối (TTĐ). Từ THGP và TTĐ manh nha tiến tới một Giáo Phái Mới của Thời đại Mới.
Vậy rõ ràng là Đức Mẹ ám chỉ cho biết Giáo Phái Mới của Thời Đại Mới là Hiện tượng nổi bật làm cho “Đức Tin chân thật đang biến mất dần, và tình trạng bội giáo trở nên phổ quát”.
- Giáo Phái Mới Thời đại Mới
Như vậy, tất cả các thuyết liên hệ SVTT đã kể, theo thời gian âm ỉ chúng đặt thành nền tảng hỗ trợ cho “Thuyết Tương Đối” của các ông Hick (1) , Knitter (2) dựa hoàn toàn trên thuyết duy lý là thuyết tuyên bố rằng lý luận theo nghĩa của Kant (3) – Nền tảng mới của tôn giáo hình thành nhờ đi theo một đường lối thực tiễn có nhiều hậu quả luân lý hay chính trị. Tuy nhiên, cũng có những giải pháp chủ trương chống lại thuyết duy lý, câu châm ngôn: “Tất cả đều tương đối”, cũng đã phát xuất dưới một giáo phái nhiều dạng, đó là giáo phái Thời Mới. Giữa năm 1960 và 1970 viện Esalen(4) được thiết lập ở California . Hiện nay Marilyn Ferguson(5) là đại diện nổi danh nhất của Thời Mới. Michael Fuss định nghiã Thời Mới là kết quả của việc trộn lẫn những yếu tố của Do Thái giáo và Kitô giáo trong tiến trình thế tục hóa, với những yếu tố Ngộ Đạo và yếu tố của các tôn giáo Á Đông (Ngộ = Gặp; những yếu tố ngộ đạo là những yếu tố có thể gặp gỡ giữa các tôn giáo – Đức Hồng y Joseph Ratzinger(6) hồi chưa làm Giáo Hoàng đã nói: “Bây giờ là dạng thức của một giáo phái mới sẽ mang tên là Tôn giáo Toàn cầu”).
* Một “sự thần bí” tân thời nơi cái giáo phái mới của thời mới này là họ quan niệm rằng không cần tin có Đấng Tuyệt Đối, chỉ cần cảm nghiệm Ngài. Thiên Chúa không phải là một Vị cần phải được phân biệt với thế gian, nhưng là một năng lực thiêng liêng hiện diện trong vũ trụ. Tôn giáo có nghĩa là hòa hợp chính mình với toàn thể vũ trụ, vượt qua mọi phân cách (Điểm này cũng phù hợp với triết lý Đông phương :Thiên Nhân Hợp Nhất” như của cả Trung Hoa và Ấn Độ). Đó là âm mưu “Hòa Giải” ý niệm tôn thờ giữa các tôn giáo. Thiên Chúa Thật tự nhiên bị con người loại bỏ, để mọi tôn giáo cùng thờ chung “một năng lực thiêng liêng trong vũ trụ”. Cái năng lực thiêng liêng ấy có thể hiểu bằng hai nghĩa: Một là đấng trừu tượng nào đó không tên; Hai là một vị “chúa” bất cứ … mỗi tôn giáo có thể tự quan niệm, nhờ đó để ngồi chung.
Thế là lui về thời con người thờ thần sấm, thần sét v.v… tương tựa như các thần Hy Lạp trong thần thoại Hy lạp cổ xưa. Gần đây người ta đã tìm cách để đưa ra nhiều giải thích cho việc viết lại các tôn giáo và văn hóa tiền Kitô. Nếu không có một chân lý chung có hiệu lực, thì Kitô giáo chỉ là một cái gì được nhập cảng từ bên ngoài, một tinh thần đế quốc cần phải cương quyết loại trừ như loại bỏ các nền chính trị đế quốc. (Đây là chủ trương biến hóa trước khi tiến tới vô thần của Tam Điểm). Cũng theo HY. Ratzinger cho chúng ta biết, Thần học Giải phóng (THGP) cũng ngầm nói với các tín đồ Thiên Chúa Giáo rằng:
– Nếu không có sự tiếp xúc của Thiên Chúa với mọi người trong các bí tích, thì các bí tích chỉ là những nghi lễ trống rỗng chẳng nói lên điều gì, và cũng chẳng ích gì cho chúng ta. Nhiều lắm là chúng làm cho chúng ta cảm nhận được những gì là linh thiêng, là những gì thịnh hành trong tất cả các tôn giáo. (Nghĩa là sự “lung linh” tạo cảm xúc cho tâm hồn nếu có, thì cũng như các tôn giáo khác thôi, vì trong các sinh hoạt của các tôn giáo, mọi tín đồ đều có những cảm nghiệm như vậy, theo các nhà Thần học Giải phóng).
* Trên đây chỉ là “một vài” trong nội dung khá bao la của ĐHY Joseph Ratzinger đã trình bày Thuyết Tương Đối trong Thần Học Giải Phóng, và các nguy hại của nó đối với niềm tin Kitô Giáo trong buổi họp các Chủ tịch các Ủy Ban Tín Lý của các Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh tại Guadalajara, Mexico, tháng 5/1996. Chúng tôi – trong phạm vi bài này – chỉ có nhu cầu trích dẫn những đoạn được giới hạn bởi đề tài, để không mắc lỗi đưa thính giả của mình vào sự mông lung bao la của các tư tưởng triết học về tôn giáo. Nhưng chính sự vạch trần và bác bỏ của Đức GH. Benedict XVI, đã trở thành “cái gai” cần phải nhổ trong những năm tháng cuối cùng triều đại Giáo Hoàng của ngài. Họ không đánh bại được tư tưởng thần học của ngài, nên nhóm TĐ nằm vùng trong giáo triều đã dùng những cách thế khác để loại bỏ ngài, thì Giáo phái Vatican II – Một Giáo Phái Mới Thời Đại Mới – mới mong dựng lên Một Tôn Giáo Mới là Tôn Giáo Toàn Cầu. Chính giáo phái này làm cho “Đức Tin chân thật đang biến mất dần, và tình trạng bội giáo trở nên phổ quát”, như Đức Mẹ đã nói trong Sứ Điệp 485 quí vị và các bạn đã nghe.
—————
Chú thích:
(1). John Richard Hicks (1904 – 1989) là một nhà kinh tế học lỗi lạc người Anh, đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1972. Hicks học kinh tế học tại Trường Kinh tế London và Đại học Oxford.
(2). Paul F. Knitter (25/02/1939), Lm. Giáo sư thần học về các Tôn giáo Thế giới và Văn hóa tại Chủng viện Union ở Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách “Không Học Phật, Tôi Đã Không Thể Là Một Con Chiên – Without Buddha I Could Not Be A Christian”.
Cả Knitter và Hick dựa vào Kant để chối từ sự hiện hữu của Đấng Tuyệt Đối trong lịch sử (xem trong Menke, trang 78 và 108).
(3). Immanuel Kant (1724 –1804) là một triết gia người Đức có ảnh hưởng lớn đến Kỷ nguyên Khai sáng. Ông được cho là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất từ trước đến nay. Ông cố gắng giải thích mối quan hệ giữa lý trí và kinh nghiệm của con người và đã vượt ra khỏi những sai lầm của triết học và siêu hình học truyền thống. Ông dạy các môn như Luận lý, Siêu hình, Nhân loại, Triết học đạo đức, Thần học tự nhiên, Toán, Vật lý, Lực, Địa lý, Sư phạm, và Luật tự nhiên. Các giáo trình của ông rất được hâm mộ, nhưng ông nhận chỉ thị là không nên công bố các tác phẩm tôn giáo vì chúng bao hàm và chứa đựng tư tưởng Thần giáo tự nhiên (deistisch), thuyết Socinus (Sozinianismus) không đồng ý với giáo lý Tam vị nhất thể) và như vậy, không phù hợp với Thánh kinh Công Giáo.
(4).(wikipedia) Các Viện Esalen, thường được gọi là Esalen – trung tâm tĩnh tâm và cộng đồng có chủ ý ở BigSur, California, trong đó tập trung vào nhân văn giáo dục thay thế . Viện đóng một vai trò quan trọng trong Phong trào Tiềm năng Con người bắt đầu từ những năm 1960. Việc sử dụng sáng tạo các nhóm gặp gỡ, tập trung vào sự kết nối giữa cơ thể và tâm trí, và thử nghiệm liên tục của họ trong nhận thức cá nhân đã đưa ra nhiều ý tưởng mà sau này trở thành xu hướng chủ đạo. Esalen được thành lập bởi các sinh viên tốt nghiệp Stanford Michael Murphy và Dick Price vào năm 1962. Mục đích của họ là hỗ trợ các phương pháp thay thế để khám phá ý thức con người, điều mà Aldous Huxley mô tả là “tiềm năng của con người”. Trong vài năm tiếp theo, Esalen đã trở thành trung tâm của các thực hành và tín ngưỡng tạo nên phong trào Thời đại Mới, từ tôn giáo / triết học phương Đông.
(5). Marilyn Ferguson – sinh ngày 15-4-1938 tại Bang Colorado, Mỹ. Một New-Age. Cô cũng là người sáng lập Hiệp hội Tâm lý học nhân văn. Năm 1973, cô xuất bản Frontiers of Research Mind (Biên giới của Tâm trí Nghiên cứu), một cuốn tiểu thuyết khảo luận về những tiềm năng to lớn của bộ não con người, và nhiều tác phẩm khác.
(6). Nhà thần học Joseph Alois Ratzinger (16.4.1927) Đức quốc. Năm 1953: Ngài đậu bằng Tiến Sĩ Thần Học tại Đại Học Freising. Ngài dạy Tín Lý và Thần Học Nền Tảng tại Đại Học Freising. Giáo Sư Thần Học Nền Tảng tại Đại Học Bonn. Lúc 35 tuổi vào năm 1962, ngài đã rất nổi tiếng trên thế giới về Thần học và trở thành cố vấn Thần Học cho Công Đồng Chung Vatican II. Giáo Sư Thần Học Tín Lý và Lịch Sử Tín Lý tại các trường Đại Học Tübingen. Regensburg. Münster (cùng thời với giáo sư nổi danh Karl Rahner). 1977 ngài được tấn phong Hồng Y. 1981 giữ chức tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin; Rồi được tấn phong Giáo Hoàng hiệu là Bênêđictô XVI (2005 – 2013); Ngoài bằng Tiến sĩ Thần học, ngài còn được trao tặng rất nhiều bằng tiến sĩ Danh dự, và nhiều Huy chương, cùng nhiều giải thưởng văn hóa. Ngài viết trên dưới 60 tác phẩm, trong đó nhiều T.Ph về thần học. Có thể nói Đức Benedict XVI là một nhà thần học lớn của thế kỷ.
1043. Chúa Giêsu cho biết: CĐ.Vat.II đã bị điều động và lèo lái bởi Tam Điểm đội lốt hàng giáo phẩm cấp cao – Đức Mẹ cũng cho biết: Chúng dựng lên một giáo hội giả và một Kitô giả.
Trong sáu Điềm báo Đức Mẹ La Salette nói về Tam Điểm, thì kỳ TGTL#210 chúng tôi đã đề cập tới hai ĐB.7&8; Rồi TGTL#211 chúng tôi đã hứa, Khi nào tới ĐB. thứ 16, Đức Mẹ nói về Công Đồng chung, chúng ta sẽ bàn tiếp. Nay nhân khi bàn về các tà thuyết độc hại Đức Mẹ đã nói trong Sứ điệp 485 qua cha Gobbi, mà ngay từ đầu thế kỷ 20, Tam Điểm đã khôn khéo lồng vào trong Giáo hội. Thông Điệp ngày 06 tháng 4 năm 2014 Đức Mẹ đã nói rõ: “Tam Điểm Tư Giáo (tức là TĐ đội lốt những tư tế trong Giáo Hội). Chúng đã xâm nhập vào tận nội cung Giáo Hội để triệt hạ Chúa Kitô và Giáo Hội”, còn Thông Điệp Ngày 07/5/2012 chúng ta nghe kỳ trước, Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết: “Khi công đồng Vatican II đưa ra những sắc luật mới, những luật này được đưa ra bởi các thế lực của Tam Điểm từ trong hàng giáo phẩm của các con.” Quả thật, chỉ đến giữa thế kỷ chúng đã dựng lên được một Công Đồng Cải Cách, một Công Đồng “Đại Kết” các tôn giáo. Công Đồng này từ từ gột bỏ tất cả những gì thuộc về 20 Công Đồng trước của Giáo Hội, nghĩa là xóa bỏ truyền thống từ khi Giáo Hội Được Chúa Giêsu thành lập, để rồi Công Đồng ấy sau khi bế mạc đã biến thành một Giáo Phái Mới của Thời Đại Mới.
* ĐB. thứ 22 của Đức Mẹ La Salette, Mẹ tiên báo về việc Thiên Chúa sẽ giáng phạt. Năm 1962 cha André Althoffer có hỏi Đức Mẹ về ĐB. này:
– Khi lưỡi gươm lửa của Thiên Chúa giáng xuống lần thứ nhứt, thì Công đồng Vatican II đã bế mạc chưa, thưa Mẹ? Chúng ta nhớ là năm cha André hỏi Đức Mẹ, CĐ.Vat.II mới bắt đầu.
Đức Mẹ cho biết: Công Đồng chung sẽ định đoạt mọi sự. Nếu không bế mạc được là một điềm xấu, nhưng nếu bế mạc được mà kết quả xấu là một điềm dữ hơn nữa.
ThĐ. Ngày 07/5/2012 chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói: “Khi công đồng Vatican II đưa ra những sắc luật mới, đều là được đưa ra bởi các thế lực của Tam Điểm trong hàng giáo phẩm.” Như vậy là chúng ta biết Kết quả xấu hay tốt, khỏi phải luận bàn.
Trước khi lật lại ĐB. thứ 16, để xem Đức Mẹ nói gì về Công Đồng Chung, nơi mà các thế lực của TĐ trong hàng giáo phẩm đã khuynh loát và bẻ lái Giáo Hội theo đường lối của chúng, chúng tôi mời quí thính giả và các bạn trẻ nghe một Sứ Điệp đặc biệt Đức Mẹ đã tiên báo từ hơn 30 năm trước cũng qua cha Gobbi sau đây.
*Sđ. 406 – Tại Como ngày 14 tháng 6 năm 1989
(chúng tôi xin trích đoạn Đức Mẹ nói về “Con Mãnh Thú Giống Con Chiên” trong Sứ Điệp 406 Đức Mẹ đã nói như sau:)
“… Con hắc thú giống con Beo chỉ Tam Điểm. Con Mãnh Thú có hai sừng giống con chiên chỉ Tam Điểm đã lọt được vào trong nội bộ Giáo Hội, được gọi là Tam Điểm đội lốt Giáo Quyền (Ecclesiastical Masonry). Nó đặc biệt lan rộng trong hàng Giáo sĩ. Sự xâm nhập của tổ chức TĐ vào nội bộ Giáo Hội này, đã được Mẹ báo trước hồi Mẹ hiện ra ở La salette, rồi tại Fatima. Khi Mẹ loan báo cho các con cái của Mẹ rằng, Satan đã len lỏi ngay cả vào hàng ngũ cao nhất của Giáo Hội. Nếu nhiệm vụ của TĐ là dẫn các linh hồn đến chỗ trầm luôn muôn kiếp, làm cho con người tôn thờ những thần tượng giả, thì nhiệm vụ của TĐ đội lốt giáo quyền là nhắm thẳng vào việc hủy diệt Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Chúng dựng lên một ngẫu tượng mới, tức một chúa kitô giả, và một giáo hội giả …” (Ngừng trích)
Xin quí vị và các bạn nhớ giùm Lời Chúa trong Thông Điệp này, để mỗi khi các đấng bậc, có thể là Linh Mục, Hay một Tu sĩ, có khi là Giám Mục, hoặc nhiều lúc trong những năm vừa qua là Hồng Y; Tổng G.M. Họ là những Tông đồ Thời Cuối của Đức Mẹ, chấp nhận để cho tà quyền đang nằm vùng trong Hội Thánh dùng mọi biện pháp để triệt họ, nhưng họ quyết tâm bảo vệ truyền thống Đức Tin, để nói lên những sai lầm, những dối trá, những gian manh trong việc cố tình cắt nghĩa sai Giáo Lý của Chúa, dùng mục vụ bất chính để làm hư hỏng các Bí Tích Chúa đã thiết lập. Nhưng mục đích chính của bọn TĐ đội lốt giáo quyền là lùa con chiên của Chúa xuống vực thẳm, để làm lễ vật hiến dâng cho chúa của chúng là Satan, vì chúng biết con chiên rất dễ bảo. Chỉ cần chúng ẩn mình trong lốt của hàng giáo phẩm, thì nói gì chiên cũng theo, thí dụ cụ thể một chuyện từng đã xảy ra, là khi Lm, hoặc Gm giảng: Bây giờ đừng có nghĩ là đạo mình thì bao giờ cũng nhất! Đạo nào cũng như đạo nấy, mỗi đạo đều có một phần chân lý, cho nên ơn cứu độ có trong tất cả mọi tôn giáo! Thế mà khi cái chân lý giả tạo này được loan truyền tới đâu, thì những con chiên ở nơi ấy cứ thinh lặng và chăm chú lắng nghe, rồi mang về nhà cứ yên trí rằng, đó là sự thật! Trong SVTT không lâu, chúng tôi đã phản biện bằng Chân Lý, bằng Sự Thật Lời Chúa trong Tin Mừng. Thưa quí thính giả và đặc biệt các bạn trẻ, trong những trường hợp như thế, chúng ta cần phải có những nhận định sáng suốt. Điều gì họ nói, hay làm, ta cũng phải lấy Lời Chúa trong Tin Mừng mà soi xét xem: Nếu là Chúa Giêsu, Người có nói những điều như thế không? Nếu là Chúa của chúng ta, Người có làm những điều như họ làm không?
– Đấng Đáng Kính TGM. Fulton J. Sheen(1) (1895-1979) lúc đương thời ngài cũng đã tiên tri: “Sẽ có một giáo hội giả tạo mang tính tục hóa, toàn cầu và bao trùm khắp thế giới. Nó sẽ là một tổ chức liên kết lỏng lẻo của nhiều giáo hội, nhiều tôn giáo.”
*Xuyên qua những điều Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã tiên báo mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy vấn đề nổi cộm lên chỉ gồm 2 Điểm:
1- CĐ.Vat II đã đưa ra những sắc luật mới, từ các thế lực của Tam Điểm trong hàng giáo phẩm.
2- TĐ đội lốt giáo quyền là nhắm hủy diệt Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Bằng cách dựng lên một kitô giả, và một giáo hội giả.
Hai điểm trên cũng cho phép chúng ta đặt ra 2 câu hỏi:
- Bằng cách nào TĐ có thể khuynh loát CĐ.Vat.II ?
- Đâu là giáo hội giả? Và kẻ đóng vai Kitô giả là ai?
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu hai vấn đề này. Tuy nhiên vì giới hạn của thời gian, chắc có lẽ vấn đề thứ hai sẽ rơi vào kỳ tới.
————–
Chú thích:
(1). ĐTGM Fulton Sheen người Hoa Kỳ (08/05/1895 – 09/12/1979) được ĐGH Benedict XVI phong Ngài là Đấng Đáng Kính.Năm 2018 đã được xác nhận thêm phép lạ, lẽ ra được phong Chân Phước cuối 12/2019 nhưng lãnh đạo “Thánh Bộ Phong Thánh” là hồng y Giovanni Becciu, theo lệnh ông giáo hoàng Francis ém lại để điều tra lấy cớ nghi ngờ ĐTGM Sheen dính líu đến bao che giáo sĩ dưới quyền lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên. Điều tra hơn 1 năm, mọi nguồn đều tái khẳng định ĐTGM Sheen luôn là người mạnh mẽ che chở bảo vệ các em và không nương tay với bọn “dã thú đội lốt giáo sĩ”. Không còn tìm được cớ nào khác, Vatican viện lẽ Covid-19, để tiếp tục nhét dự án phong Thánh “trùm mền ngủ đông” Giovanni Becciu chính là tay hồng y thân tín của giáo hoàng Francís , phó phòng Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin, bị truy tố tội biển lận $355 triệu EUR v/v khu dân cư xa hoa Chelsea London. Còn $2,2 triệu gửi qua Úc thao túng vụ án George Pell thì chối sạch dù chữ ký của Becciu đều được nhận dạng trên các giấy chuyển tiền. Becciu khăng khăng khai rằng y theo “lệnh trên”làm việc. Và đúng là dự án London đã được cả giáo hoàng Francis lẫn Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin “ban phép lành”. Hiện Becciu chỉ ra trình tòa có 2 ngày, sau đó vụ xử án lại bị triển hạn “đóng băng” chưa biết đến bao giờ.
- Đối với Giáo Phái Vatican II, các tín điều xưa cũ cần phải cất kỹ trong bảo tàng. Tất cả những ai bám vào đó để mà giảng dạy và định hướng cho mục vụ hôm nay, đều bị gán cho nhãn hiệu bảo thủ, trì trệ, cứng nhắc, và nguy hiểm.
Trong 36 ĐB. thì có sáu Điềm báo Đức Mẹ La Salette nói về Tam Điểm. Kỳ TGTL#210 chúng tôi đã đề cập tới hai ĐB.7&8; Rồi TGTL#211 chúng tôi đã hứa, Khi nào tới ĐB. thứ 16, Đức Mẹ nói về Công Đồng chung, chúng ta sẽ bàn thêm. Nay nhân Thông Điệp của Chúa nói về việc Tam Điểm (TĐ) lộng hành và cũng có thể nói là TĐ chiếm CĐ.Vat.II, thì mới có chuyện TĐ đưa ra những sắc luật mới như Chúa đã cho biết. Bởi vậy không cần phải đợi chờ lâu, chúng ta sớm lật lại ĐB. thứ 16, để xem Đức Mẹ đã tiên báo cho những con cái Mẹ biết thế nào về những tai họa khủng khiếp sau CĐ.Vat.II, cũng gọi là Công Đồng Chung, một khi đã có kết quả, nhưng lại là kết quả xấu. Nhưng trước hết, chúng tôi cần cho quí vị và các bạn biết ngay một tài liệu đã “giải mật” liên quan đến CĐ.Vat.II, chắc chắn phải do những Thượng Phụ trung thành với Chúa Giêsu KiTô và Giáo Hội Thật của Người. Các Nghị phụ này có mặt trong suốt thời kỳ công nghị của Công Đồng, rồi sau khi đã biết rõ sự thật, các Ngài đã không thể im lặng, để cho cộng đồng Dân Chúa khắp nơi cứ bị lừa gạt bởi một tổ chức quá mưu mô, quỉ quyệt, và xảo trá, đến nỗi hai ngàn năm trước Chúa đã thấy cục diện ngày hôm nay và Người đã dạy: “sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn. Thầy báo trước cho anh em đấy!” (Mt 24,24-25), và “Sẽ có những bậc thày giả ở giữa anh em. Họlà những người mở đường cho những tà giáo nguy hại lọt vào. Họ chối bỏ ngay cả Đấng đã cứu chuộc họ. Rất nhiều người sẽ theo và bắt chước lối sống phóng túng của họ, xuyên qua những xúc phạm của họ, mà niềm tin Kitô bị phỉ báng. Vì tham lam, họ dùng lời lẽ gạt gẫm anh em để trục lợi. Án phạt họ đã sẵn sàng từ lâu, và họa diệt vong đã gần kề.”(2Pr 2,1-3).
Những điều Chúa nói từ 2.000 năm trước, bây giờ đều đã xảy ra hết cả:
* HY. Arinze, nguyên Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Bí Tích, đã gay gắt cật vấn, “các vị coi mình là ai? Các vị coi mình cao hơn cả Đức Kitô sao mà dám thay đổi giáo lý và lời dạy của Ngài?”
(Số187/SVTT42).
* Đức Hồng Y Rainer Maria Woelki trong bài giảng hôm 8/9/2019. Ngài nói: “sứ vụ thực sự và duy nhất của Giáo Hội là: “Loan báo Tin Mừng; và làm chứng cho các dân tộc và toàn thế giới về ơn Cứu Độ nhờ Con Thiên Chúa; cũng như chỉ cho mọi người con đường dẫn đến cõi vinh phúc muôn đời. Tuy nhiên, oái oăm thay, đó không phải là những gì thường thấy ngày hôm nay trong Giáo Hội”. Ngài còn tiếp: “Thay vào đó, đối với một số người, Giáo Hội đã trở thành một ‘thực thể xã hội học thuần túy – phù hợp với học thuyết về giới tính – và phải thích nghi với xu hướng chính trị và xã hội”.
* Đức Hồng Y Tổng Giám mục Köln trước cuộc “Cải Cách Giáo Hội” của Vatican hôm nay, Ngài lên tiếng cảnh báo:“Một Giáo Hội tìm cách thích nghi đức tin của mình cho phù hợp với thế gian, thì công việc điều chỉnh ấy không phải là hoạt động của Chúa Thánh Thần” (221/SVTT.51).
* Đức Hồng Y Gerhard Müller, nguyên Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đã khẳng định: “Trên thế gian này, không một ai có quyền sửa, hay đổi lề luật của Chúa. Dù là Giáo hoàng, một Công Đồng, hay một Hội Đồng Giám Mục cũng không có năng quyền để thay đổi.”
– Còn rất nhiều tiếng nói, chúng tôi chỉ xin trưng dẫn điển hình, để khỏi mất thời gian tính, như của TGM Maria Carlo Viganò – Đức Hồng Y Raymond Burke – ĐHY Walter Brandmüller – Đức Giám Mục Strickland – ĐTGM thuộc Tổng Giáo Phận San Francisco Salvatore Cordileone – ĐGM Mark Brennan của Giáo Phận Wheeling-Charleston – cha James Altman – LM Bill Kuchinsky, Tiến sĩ thần học Công Giáo Taylor Marshall – Tiến Sĩ George Weigel, các tờ báo mạng Công giáo lifesitenews.com, The Pillar và ChurchMilitant, Các nhà hoạt động Lauren Handy và Terisa Bukovinac của tổ chức Progressive AntiAbortion Uprising v.v…
* Thực sự nói là “MẬT”, nhưng chẳng có gì là mật đối với những ai từng quan tâm đến hiện tình Giáo Hội, vì những sự kiện rối tung cứ xảy ra từng tuần, nếu không muốn nói là từng ngày. Một khi đã quan tâm, thì đã có sự theo dõi các biến chuyển. Không có biến chuyển nào mà không có sự nối kết giữa cái này với cái khác. Dưới con mắt của những quan sát viên, những móc xích của sự nối kết dẫn họ lần đến những kết quả của từng khúc mắc. Quan Tâm, theo dõi các biến chuyển, Tìm Hiểu các khúc mắc, và đưa ra các giải pháp ứng phó đối với sự suy trầm của Giáo Hội hôm nay, có thể nói là hoạt động của những nhà Tâm Linh chân chính.
Hôm nay chúng tôi mời quí vị và các bạn theo dõi một tài liệu “Mật” về CĐ.Vat.II từ các nhà tâm linh học. Tài liệu này đã được Lm. Joseph Paul Phạm Đức Hậu – Đây là Đức Tin – đã nghiên cứu, đúc kết và trình bày như sau:
Trào lưu Thần Học Mới xây dựng trên nền móng là những sai lầm của Duy Tân Thuyết, và những thuyết liên hệ dựa hoàn toàn trên thuyết duy lý. Và ta có thể tóm gọn nguyên tắc và hồn sống của nó vào một câu: tôn giáo phải thay đổi theo thời gian như những lãnh vực khác của cuộc sống con người.
*Sau khi Đức Pio XII qua đời, trải qua một Mật Viện Bầu Giáo Hoàng – Conclave – với những điều kỳ lạ lẫn khó hiểu, HY. Roncalli lên ngôi với hiệu là Gioan XXIII, trùng tên hiệu với một ngụy giáo hoàng hồi đầu thế kỷ XV. HY Roncalli là một nhân vật có tư tưởng tự do và ưa kết bạn với những thành phần Tam Điểm, những người Cộng Sản và Xã Hội Chủ Nghĩa, và từng bị cách chức giáo sư tại Đại Học Lateran vì nghi can theo lạc thuyết Duy Tân. Vì thế, Bộ Tác Vụ Thánh, kể từ năm 1925, dưới thời Đức Pio XI, đã lữu trữ hồ sơ về Roncalli như một nghi can theo lạc thuyết Duy Tân – Suspect Modernist.
Do vậy mà ta dễ hiểu tại sao, ngay sau khi lên ngôi được vài tháng, Gioan XXIII đã gây ngỡ ngàng cả thế giới bằng việc loan tin sẽ triệu tập một công đồng với tên gọi là Công Đồng Vatican II, để thực hiện cuộc cách mạng “Canh Tân Giáo Hội”.
Ngay sau khi CĐ Vatican II được chính thức diễn ra ngày 11/10/1962, có thể nói là CĐ đã bị đảo chính và cướp diễn đàn bởi các nhân vật và cố vấn thần học có tư tưởng tự do cách mạng theo Duy Tân Thuyết và Thần Học Mới. Đáng kể nhất là các HY. Josef Frings; Augustin Bea; Leo Joseph Suenens; Eugene Tisserant; Achille Lienart… Bên cạnh các HY này, có các cố vấn thần học – periti– phụ giúp với vai trò như bộ não suy tư, chỉ huy, và định hướng. Các cố vấn thần học này gồm có: Joseph Ratzinger, Hans Kung, Yves Congar, Henri de Lubac, Karl Rahner, Gregory Baum…
Đức Tgm. Maracel Lefebvre, một thành viên trong ban soạn thảo các lược đồ – schemas – sẽ được bàn thảo tại CĐ, nhớ lại: Tất cả đã được sẵn sàng cho các Nghị Phụ bàn thảo tại CĐ diễn ra vào ngày 11/10/1962 tại trung tâm Đền Thờ Thánh Phê-rô. Nhưng một diễn biến nằm ngoài dự tính của Toà Thánh đã xảy ra. Ngay từ những ngày đầu tiên, CĐ đã bị chiếm giữ bởi những lực lượng cấp tiến…và chỉ sau 15 ngày kể từ phiên họp đầu tiên của CĐ, toàn bộ 72 lược đồ được soạn trước đã bị trả lại cho ban soạn thảo, bị bác bỏ và vứt vào thùng rác!
Diễn biến bất ngờ trên đã khiến toàn bộ các Nghị Phụ tại CĐ ngỡ ngàng và không biết sẽ thảo luận cái gì. Vì các lược đồ được chuẩn bị trước đã bị loại bỏ nên các Nghị Phụ đã hoàn toàn phải dựa vào và bị dẫn dắt bởi nhóm các thần học gia Duy Tân Thuyết và Thần Học Mới. Chủ ý của lực lượng Thần Học Mới là nhằm chia cắt CĐ khỏi truyền thống và lái CĐ theo ý hướng canh tân đổi mới của họ. (Xin nhớ rằng nhóm này là những thần học gia Tam Điểm đội lốt giáo quyền).
Trước hiện thực trên, ta hoàn toàn có thể nhận ra mối liên hệ “máu thịt” giữa lạc thuyết Duy Tân và Giáo Phái Vatican 2 (GPV2). Về tương quan giữa lạc thuyết Duy Tân và GPV2, ta có thể tóm gọn trong một câu là: Duy Tân Thuyết đã trở nên kim chỉ nam và là “kinh thánh” của GPV2. Gần như toàn bộ cơ chế vận hành và giáo thuyết của GPV2, được xây dựng và rút tỉa ra nhờ suy niệm và áp dụng các nguyên tắc của lạc thuyết Duy Tân. Có thể nói, tất cả 65 luận điểm bị kết án của lạc thuyết Duy Tân, đều trở thành men và muối trong GPV2. Sau đây là đơn cử một vài điểm tiêu biểu tương ứng với 5 lãnh vực sai lầm chủ yếu của lạc thuyết Duy Tân vừa nêu trên:
* Một là, liên quan đến quyền giáo huấn: lạc thuyết Duy Tân cho rằng, các nhà chú giải có quyền thẩm định và khắc phục cho chính xác hơn những chú giải Sách Thánh của GH! Đồng thời khẳng định rằng, quyền giáo huấn của Giáo Hội cũng không thể quyết định ý nghĩa thực sự của Thánh Kinh! (x. D. 2002; 2004). Quan điểm sai lầm đến ngạo mạn này đã được GPV2 hoàn toàn tán thành và dựa vào để làm một cuộc xét lại toàn bộ đức tin và giáo huấn của GH…
* Hai là, liên quan đến mạc khải: lạc thuyết Duy Tân cho rằng: các Tin Mừng vẫn được tăng trưởng bằng các bổ sung và sửa chữa cho đến khi quy điển sách thánh được xác định và thiết lập. Do vậy, các Tin Mừng vẫn còn chứa đựng những dấu vết mơ hồ và không chắc chắn về giáo lý của Đức Kitô (D. 2015). Quan điểm sai lầm độc hại này được GPV2 lấy làm kim chỉ nam để diễn giải, sửa chữa, và bóp méo lời Chúa cho phù hợp với mỗi thời đại và tà ý của con người…
* Ba là, liên quan đến Đức Kitô: lạc thuyết Duy Tân cho rằng, niềm tin vào Đức Giêsu Kitô bắt nguồn từ ký ức và lương tâm Kitô giáo mà ra, chứ không phải là do dựa trên căn bản của Tin Mừng (x. D. 2027; 2031). Xét cách sâu xa, GPV2 cũng hoàn toàn tán đồng quan điểm sai lệch này của Duy Tân Thuyết trong việc giải thích đức tin. Vì đức tin bắt nguồn từ ký ức và lương tâm Kitô giáo, cho nên mỗi thời mỗi khác. Đức tin cần phải biến đổi theo tâm thức của con người thời đại. Không bám vào quá khứ…
* Bốn là, liên quan đến các Bí Tích: Duy Tân Thuyết phủ nhận việc Chúa thiết lập Bí Tích Giải Tội và quả quyết rằng: Những lời Chúa nói: “hãy nhận lấy Thánh Thần, nếu anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, nếu anh em cầm buộc tội ai thì tội người ấy bị cầm buộc” (Ga 20, 22-23) không hề ám chỉ đến bí tích giải tội, cho dù các nghị phụ của CĐ Trento đã muốn khẳng định như thế (D. 2047). Những sai lầm tệ hại này của Duy Tân Thuyết đã trở thành động lực và xác tín để GPV2 sửa đổi lại tất cả các Bí Tích của GH, tiểu biểu nhất là Bí Tích Thánh Thể và Truyền Chức. Chính vì cho rằng Chúa không thiết lập Bí Tích Giải Tội, nên GPV2 đã xoá bỏ nghi thức trao quyền tha tội trong Nghi Thức Truyền Chức Linh Mục 1969, Đó là họ đã nên một lòng một ý với lạc thuyết Duy Tân để chối bỏ việc Chúa Giêsu đã thiết Bí Tích Giải Tội!
(Khi CĐ.Vat.II thay đổi Thánh Lễ Truyền Thống, thì họ cũng thay đổi Nghi thức Truyền Chức Thánh. Những chuyện như vậy, giáo dân bình thường đâu có biết. Đây là điều nhiều vị trung thành với Giáo Hội truyền thống không chấp nhận. Điển hình là TGM Ngô Đình Thục, của VN, một người cương quyết bảo vệ nguyên vẹn truyền thống, không muốn bị làm mất đi đặc tính Tông Truyền của Giáo Hội; TGM. Maracel Lefebvre và nhóm Piô X cũng vậy. Thế nào gọi là một GIÁO HỘI DUY NHẤT – THÁNH THIỆN – CÔNG GIÁO – VÀ TÔNG TRUYỀN ? Chúng ta nhìn lại cách hành xử của GPV2 bây giờ có còn là Duy Nhất nữa không? Khi người đứng đầu chủ trương phân quyền, ban quyền cho các giáo hội địa phương tự phân định và tự ban hành (Amoris Laetitia), bởi vậy mới có chuyện GH Đức tự quyết định cho LM được lấy vợ – Phụ nữ được làm LM – Ly dị-tái hôn được rước lễ v.v… nhiều giáo hội Âu Châu cũng giống vậy, như Pháp, Tây ban nha v.v… Nhiều nơi như ở Mỹ ủng hộ hôn nhân đồng giới, ủng hộ phá thai và cho họ tự do rước lễ … Như vậy có còn mệnh danh là một giáo hội Thánh thiện nửa không? Phế bỏ mọi truyền thống, thay đổi nghi thức Truyền Chức Thánh thì đâu còn gọi là Tông Truyền? Các vị được truyền chức từ sau CĐ.Vat.2 hẳn là đã không có thể gọi là Nối Tiếp các Thánh Tông Đồ, vì đã mất đi tính Tông Truyền. Tam điểm cố ý làm như vậy, để có thể ngồi chung với các ly giáo, lạc giáo).
* Năm là, liên quan đến việc thiết lập GH: suy gẫm kỹ ta thấy, tất cả những sai lầm của lạc thuyết Duy Tân liên quan đến việc thiết lập GH như đã nêu ở trên, đều được GPV2 thâu nạp và lấy làm nền móng để xây dựng học thuyết Giáo Hội của mình. Quan điểm tiêu biểu nhất mà GPV2 đã “vay mượn” từ lạc thuyết Duy Tân, đó là: Công Giáo hiện đại chỉ có thể dung hoà được với khoa học đích thực khi nó được biến đổi thành một Kitô Giáo phi tín điều; nói cách khác đó là một dạng của Chủ Nghĩa Tin Lành tự do (D. 2065). Quan điểm sai lầm này đã được GPV2 áp dụng triệt để từ mấy chục năm qua và rất sống động trong hiện tại. Đối với GPV2, các tín điều xưa cũ cần phải cất kỹ trong bảo tàng. Tất cả những ai bám vào đó để mà giảng dạy và định hướng cho mục vụ hôm nay, đều bị gán cho nhãn hiệu bảo thủ, trì trệ, cứng nhắc, và nguy hiểm cần phải tránh xa! (nói đúng hơn là họ đã và đang loại dần bằng sự tuyển chọn những ai là đệ tử của duy Tân Thuyết để đưa vào những chức vụ quan trọng. Đó là cách mà TĐ càng ngày càng chiếm đa số trong hàng giáo phẩm cấp cao).
KẾT LUẬN: Những minh chứng trên đủ để thấy rằng, học thuyết của GPV2 chỉ là sản phẩm của lạc thuyết Duy Tân, không hơn không kém. Nhờ được dẫn dắt bởi Duy Tân Thuyết, ta thấy cái điệp khúc quen thuộc: điều GH kết án thì GPV2 bênh vực; điều GH ngăn cấm thì GPV2 cho phép; điều GH tuyên bố là sai lầm thì GPV2 đem ra giảng dạy; điều GH coi là trọng tội thì GPV2 coi là bình thường; điều GH bó buộc thì GPV2 tháo cởi…., theo chiều hướng này, hệ quả tất yếu sẽ là sự phá huỷ tôn giáo và đưa đến đích điểm là Chủ Nghĩa Vô Thần như lời Đức Pio X đã nói ở trên.
Một bằng chứng nữa cho thấy, GPV2 KHÔNG PHẢI LÀ GH CÔNG GIÁO, đó là việc họ đã chính thức bãi bỏ bổn phận tuyên thệ Lời Thề Chống Lạc Thuyết Duy Tân vào tháng 7 năm 1967. Chính những người đã từng đặt tay trên sách thánh để tuyên thệ Lời Thề, giờ họ đồng lòng với nhau để bãi bỏ chính Lời Thề ấy. Đó quả thực là một sự phản bội không thể diễn tả bằng lời! Cho nên, nếu nói rằng, GPV2 vẫn là Giáo Hội Công Giáo, thì quả đúng là Giáo Hội đã bị “các cửa địa ngục khuất phục”, nghĩa là GH đã bị khuất phục bởi các sai lầm mà GH đã từng kết án! Vậy mà nhiều người vẫn tin và chấp nhận điều vô lý ấy! (Còn Tiếp)
——-oOo——
ACE trong các Chương Trình TGTL – SVTT & Các DCTĐ Kính Chúc Quý Thính Giả và các Bạn Trẻ luôn được Bình An trong Chúa Kitô và Mẹ Maria.