Vẫn thứ ba, ngày 14 tháng 8 năm 2012

Buổi nói chuyện với cô Thủy tại nhà Phụng & Uyển

  1. Phụ chú về Hội nghị Thành Đô năm 1990

(Trong buổi nói chuyện với cô Thủy ngày 14.8.2012, tác giả có đề cập tới Hội Nghị Thành Đô. Hôm nay, nhân đánh máy tới đó, tác giả thiết nghĩ mình cần nói rõ hơn về Hội Nghị này, để giới trẻ VN sau này biết tầm mức tác hại của nó đối với vận mạng quê hương, dân tộc VN như thế nào, nên hôm nay tác giả thêm vô phần Phụ Chú này, tức là đã 6 năm sau buổi nói chuyện hôm ấy).

Hội nghị Thành Đô được tổ chức tại Tứ Xuyên, thuộc Hoa Nam, bên Trung Quốc vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990. Bên VN cấp cao nhất có: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười (chức vụ này sau gọi là Thủ Tướng), và Phạm Văn Đồng – cố vấn ban chấp hành Trung ương Đảng. Về phía TC có: Tổng bí thư Giang Trạch Dân, cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện. Đúng như buổi nói chuyện giữa tác giả với Người nữ Tâm Linh sáu năm trước về Hội nghị Thành Đô, đến nay vẫn còn đầy bí mật! Tuy nhiên, với thời gian, sự rò rỉ tin tức vẫn không thể nào tránh khỏi, giống như công hàm bán nước do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958, thì bây giờ cũng vậy, mới đây hai tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về “Kỷ Yếu Hội Nghị Thành Đô” có những đoạn văn như sau:

“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời, vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước, do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….

Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.

Đảng và nhà nước CSVN không bác bỏ một cách quang minh chính đại, chỉ đôi khi phủ nhận với tư cách cá nhân kẻ bị chất vấn. Nhưng dù có phủ nhận thế nào, thì sự thật vẫn là sự thật. tác giả hiện đang có trong tay một tài liệu ghi âm cuộc họp mật giữa Tổng cục Tình báo Hoa Nam, với Tổng cục 2 Việt Nam về tinh thần Hội nghị Thành Đô. Chúng tôi xin ghi lại đây vài điểm trọng yếu trong đó TC.TB.HN chỉ đạo cho bọn lãnh đạo VN qua TC2/VN là trước sau VN cũng phải trở về với “đại gia đình dân tộc TQ”. Vấn đề chỉ là sớm hay muộn, mà sớm thì tốt hơn! Không có và không hề có việc TQ thôn tính VN. Các nước chung quanh đều nghèo, họ cần TQ hơn là TQ cần đến họ… cho nên các đồng chí lãnh đạo ở VN phải thực hiện nghiêm chỉnh việc giáo dục dân chúng. Không được để cho chúng nói năng bậy bạ là “TQ xâm lược, TQ xâm lăng, hay TQ bá quyền”. Chúng tôi cũng khẳng định là sẽ cho VN thành một quận huyện của TQ, thì tốt hơn là thành “Khu vực Tự trị”, vì tự trị thì dễ bị lồng vào tinh thần dân tộc, và là mầm mống cho sự phân liệt. Chúng tôi thẳng thắn phê phán VN chưa đủ cứng rắn, để cho tồn tại những thành phần trí thức “bẻm mép”. Mao Chủ tịch từng nói: Trí thức thì có bệnh hay nói, nhưng rất nhát, chỉ cần đem súng chĩa vào, là chúng chạy có cờ. Các đồng chí phải luôn tin tưởng rằng sau lưng các đồng chí lúc nào cũng có TQ. TQ có rất nhiều xe tăng. Bất cứ khi nào cần phải làm lại một “Thiên An Môn” ở VN, thì TQ cũng sẵn sàng. Cho nên đừng sợ quần chúng. Cứ việc ra tay mạnh bạo, thì mọi việc sẽ êm…”

 

  1. Nguyên nhân dẫn đến Hội Nghị Thành Đô

A- Những giao kết từ đầu: năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định với Thủ Tướng Chu Ân Lai của Trung Cộng là: “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một nền văn hoá. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm để đền ơn, đáp nghĩa”. Kẻ đứng đầu đảng CSVN một khi đã hứa như thế, với một tên mang trong mình giòng máu xâm lược truyền đời là Đại Hán. Bên hứa thì đem hết cả gia sản của Tổ quốc để thế chấp không cần biên nhận. Bên giúp là chúa đảng lưu manh, đưa một thì tính mười, giết người không cần văn tự! Vì thế công pháp quốc tế đối với bọn chúng chỉ là con số không. Biết thế nên cha ông mình ngày xưa cũng không thèm gọi chúng là đại hán, mà gọi bằng giặc Tàu Ô (tàu là do tiếng Việt đọc trại âm của chữ tào; Từ điển Hán Việt giải nghĩa chữ “tào” là bầy, bọn, hoặc lũ, lại đồng nghĩa với ồn ào, ầm ĩ, huyên náo). Quả vậy, hễ ở đâu có người tào thì ở đó ồn ào, huyên náo; (Ô cũng theo từ điển Hán Việt có nhiều nghĩa: dơ bẩn, nhơ nhớp, ô nhiễm; còn có nghĩa là màu đen, hay con quạ. Trong truyện cổ tích “Ngưu Lang Chức Nữ”, có nói tới “Nhịp cầu ô thước”, tức là cây cầu ở trên trời bắc ngang cho Ngưu Lang gặp Chức Nữ được làm bằng bầy chim ô thước, tức là bầy quạ đen). Quạ là loài chim ăn xác chết, hoặc thịt thối. Vậy Tào ô là bọn người xấu xa, dơ bẩn, lại hung ác và nham hiểm; đồng nghĩa với bọn ác ôn, côn đồ; Ngày nay bọn hung hiểm ác ôn này, người ta gọi là “Xã hội đen”. HCM đã là một tên lưu manh mà gặp trùm lưu manh, hay chúa đảng lưu manh thì không những mất cả cơ đồ, mà còn phải chết. Chuyện đó ngày xưa nói thì không ai tin, nhưng bây giờ thì ai cũng thấy! Thằng Tào không những nó sẽ lấy dần, lấy hết cả giang sơn đất nước VN, mà nó đang còn giết dần, giết tận bằng đủ mọi thứ độc tố chết người. Bởi kẻ hứa vốn đã là thằng lưu manh, tính nửa đường bỏ ngang, chạy sang xách giầy cho Liên Xô, thì quịt được chủ cũ. Chủ đây là chủ nợ. Cho nên Tào Cộng nuốt nghẹn đợi thời cơ, chờ lúc Liên Xô lụn bại, nhà tan, đảng nát, bấy giờ mới cho gọi thằng chuyên xách dép, đang cò bơ, cò bất, mất nơi nương tựa … lại, chửi cho một mách, rồi mới tính sổ nợ cả vốn lẫn lời. Bài chửi của TBT Giang Trạch Dân chửi bọn Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, thì từ ngày đó (tức ngày 3.9.1990 Hội nghị Thành Đô) tới giờ bọn chúng không tên nào hé răng, hở môi! Nhưng sau đó thì bọn lãnh đạo Bắc Kinh nợ thì vẫn lấy dần theo đúng kế hoạch, mà hận kẻ phản bội, thì chúng vẫn dạy cho dân của chúng ở trong nước bài “Công dân đức dục” như sau:

BBọn CSVN là bọn lòng lang dạ sói. (Chúng tôi Trích nguyên văn bản dịch của GS Vũ Cao Đàm từ tài liệu của Trung Quốc) “… Không kể hao tốn rất nhiều về cả nhân lực, lẫn vật lực cho trận chiến Điện Biên Phủ, mà trước kia Mao Chủ Tịch đã giúp cho bọn CSVN có được chủ quyền nửa nước. Từ năm 1960, mặc dù Trung Quốc chúng ta (TQ) còn nhiều khó khăn nhưng đã vô tư ủng hộ VN về quân sự, kinh tế, kỹ thuật quy mô lớn, để VN đánh bại 560 nghìn quân Mỹ và xây dựng hạ tầng cho việc hồi phục kinh tế. Nhưng bọn CSVN đúng là bọn ăn cháo đá bát! Sự vô ơn của chúng là một tay nhận viện trợ vô tư của Nhân dân Trung Quốc chúng ta, một tay ngấm ngầm chìa ra bắt liên lạc với Liên Xô. Chúng dựa thế Liên Xô, quấy nhiễu biên giới ta, đến làm đổ máu người TQ. Chúng trục xuất Hoa kiều. Chúng đem quân xâm chiếm Campuchia (1978-1979). Chúng ta không thể nhẫn nại được nữa, tháng 2 năm 1979, Quân đội Nhân dân TQ buộc lòng phải phát động chiến tranh phản kích tự vệ, chính vì VN đã cầm súng bắn lại ân nhân của mình. Đó là gì? – Đó chính là lòng lang dạ sói. Cộng Sản Việt Nam nói riêng, VN nói chung đều là bọn tiểu nhân bỉ ổi! Chúng không bao giờ biết xấu hổ, cho nên sẽ có ngày VN phải được học một bài học đích đáng. Một bài học muôn đời chúng không còn biết chúng là người VN” (hết trích).

Cuộc chiến tranh biên giới nổ ra từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, về mặt đối ngoại, TC lớn tiếng nói là “cuộc chiến có giới hạn” và để “dạy cho VN một bài học”, nhưng mục đích chính của TC là bắt VN phải rút quân khỏi Campuchia (thời gian đó Sihanouk đang tị nạn ở Bắc Kinh, vì bọn Khmer đỏ), nhưng đối nội thì bọn lãnh đạo Bắc Kinh lại gọi là “Cuộc chiến tranh phản kích tự vệ, chính vì VN đã cầm súng bắn lại ân nhân của mình”, để gây niềm căm phẫn trong lòng người dân TQ đối với VN. Cuộc chiến chỉ ngưng lại và TC có rút quân vào ngày 16.3.1979 tức là một tháng sau đó, nhưng thực chất là vẫn âm ỉ kéo dài 10 năm, cho đến khi Việt Cộng hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế, giữa lúc CS quốc tế Liên bang Sô Viết và khối CS các nước Đông Ấu cùng xụp đổ từ năm 1989 đến mùa Giáng Sinh năm 1990 và hoàn tất năm 1991. Khi ấy, tụi đầu nậu ở Ba Đình đành phải kéo sang Hoa Nam để xưng tội với Giang Trạch Dân và sẵn sàng ký giấy bán nước theo quy trình đã được bọn Tào Ô hoạch định sẵn, dưới một cái tên khá đẹp gọi là “Hội Nghị lãnh đạo cấp cao Thành Đô”. năm 1990.

Sau Hội nghị Thành Đô, một cán bộ cao cấp, ủy viên Bộ Chính Trị Nguyễn Cơ Thạch, đã chính thức xác nhận: “Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu” (Các bạn trẻ cần biết: “Bắc thuộc” nghĩa là VN bị lệ thuộc phương Bắc tức TQ) .

(Chú Thích: 1- Nguyễn Cơ Thạch (19211998) là một chính trị gia, nhà ngoại giao Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (sau đổiPhó Thủ tướng Chính phủ), nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam. Ông này sau bị Bắc Kinh ra chỉ thị là phải loại, vì nghi là thân Tây phương.

2– lời kể của ông Dương Danh Dy, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung cộng:Những người ở lứa tuổi tôi (và trẻ hơn hai mươi, hai nhăm tuổi) hiện nay đều không quên những viện trợ to lớn của nhân dân Trung Quốc anh em cho chúng ta trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Từ vũ khí đạn dược đến gạo ăn vải mặc, từ ô tô, tầu thủy, máy bay đến chiếc xe đạp, máy khâu, từ gói mì chính đến cái kim sợi chỉ…, không sao kể hết.

Tôi còn nhớ, từ chiếc mũ cối và đôi dép cao su Việt Nam đưa mẫu sang, các kỹ sư và công nhân Trung Quốc đã chế tạo cho quân đội ta và nhân dân ta những chiếc mũ cối và đôi dép lốp nổi tiếng một thời (ta gọi là nón cối và dép râu).

… Ít người Việt Nam được biết những con tầu Giải phóng tải trọng chỉ có 50 tấn, nhưng dùng động cơ mạnh tới 800 mã lực (nghĩa là có tốc độ rất nhanh) để có thể từ một cảng miền Bắc chở vũ khí, lương thực… vào cập bến tại một nơi ở vùng giải phóng miền Nam, rồi trở lại ngay miền Bắc trong đêm đã được các kỹ sư và công nhân một nhà máy đóng tầu Trung Quốc thiết kế, và chế tạo xong trong một thời gian ngắn kỷ lục theo yêu cầu của chúng ta”(hết trích).

Đây chỉ là một ví dụ trong rất nhiều ví dụ về sự “giúp đỡ” của Trung cộng. Trung cộng thực chất giúp đỡ ông Hồ và đảng cộng sản nhằm 2 mục tiêu: Lan truyền đế chế cộng sản đỏ, Đổi lấy 2 đảo chiến lược và khu vực nhiều dầu mỏ của Việt Nam. Dã tâm ấy được thể hiện qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng dưới sự chỉ đạo của ông Hồ (Trích Hồi ký Thép Đen của Điệp báo viên Đặng Chí Bình X20).

Cuối năm 2014, 2 tờ báo Trung Quốc là Tân Hoa XãThời báo Hoàn cầu, đã loan tin rằng ở cuộc gặp gỡ nhằm bình thường hóa quan hệ hai nước này, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã “sẵn sàng chấp nhận để Việt Nam làm một khu tự trị của Trung Quốc”).

 

  1. Hậu Quả của Hội Nghị Thành Đô Năm 1990

1) Hội nghị Thành Đô đã tác động sâu rộng đến việc Việt Nam phải sửa lại hiến pháp. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980 đích danh lên án “bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược”, nhưng Hiến pháp năm 1992 đã loại bỏ những câu mang tính chống lại Bắc Kinh.

2) Về mặt đối nội, chính quyền Việt Nam kể từ sau Hội nghị Thành Đô không nhắc đến Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 nữa. Truyền thông không được loan tin về cuộc chiến. Khoảng 60 ngàn quân dân hy sinh trong cuộc chiến biên giới ấy không được tưởng niệm, cũng không được nhắc tới.

3) Cuộc chiến đặc biệt để lại nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam, 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm, mà Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao.

Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu như sau:

Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính Trung Quốc, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn.

Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính Trung Quốc, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.

Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính Trung Quốc, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.

Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: diệt 14.000 lính Trung Quốc, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn.

Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. Để được Liên Xô tăng cường viện trợ, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam quyết định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh. Về phía Trung Quốc, cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.

4) Sau Mật Ước Thành Đô năm 1990, Trung Cộng ngang nhiên lần lượt chiếm đoạt Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, đồng thời tháo bỏ hoặc di dời nhiều cột mốc biên giới Việt -Trung vào sâu trong lãnh thổ của VN. Thiết lập những khu tự trị cho Trung Cộng như vùng Vũng Áng ở Hà Tĩnh, Bauxite Tây Nguyên v.v. Họ tự do thiết lập các phố Tàu suốt từ Bắc vô Nam. Kiểm kê cho đến năm 2017, TC đã tạo ra các vết dầu loang của họ trên toàn diện địa lý VN, từ Bắc chí Nam như sau: Từ Lào Cay biên giới Việt Trung đang thực hiện Cao tốc nối liền tới Hà Nội; Các tỉnh có phố Tàu: Bắc Ninh, Hạ Long, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Bình Dương; Các Tỉnh cho TC thuê đất: Cao Bằng, Móng Cái, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Vân, Quảng Nam, Kon Tum, Bình Định, Bình Thuận, Bình Dương, Trà Vinh. Chưa hết, biển thì bị đầu độc như vụ nhà máy Formosa thải chất độc ra biển thuộc các tỉnh miền Trung, làm cho ngành hải sản VN hầu bị tê liệt. Toàn bộ nước sông bị ô nhiễm: cá tôm ốc bắt lên mổ ra chứa đầy sán. Thực phẩm ngày nay tại VN bị Trung Cộng thồn sang hoàn toàn là tiêm nhiễm nhiều chất độc, để cho dân Việt bị bệnh mà chết dần, chết mòn, trong kế hoạch diệt chủng của chúng. Thông báo cuối năm 2017 của bộ Y tế cho biết, mỗi ngày có hơn 240 người chết vì bệnh ung thư. Mới đây, lợi dụng mùa mưa, TQ xả lũ do các đập đầu nguồn sông Cửu Long gây ra tình trạng ngập lụt nhiều nơi trên quê hương VN. Ngay tại thủ đô Hà Nội trong những tuần lễ đầu tháng 8 năm 2018 theo báo cáo, tình hình ngập úng gây ảnh hưởng hơn 4.600 hộ (hơn 22.400 người dân). Riêng huyện Chương Mỹ ước tính tổng thiệt hại hơn 264 tỷ đồng. Tình trạng ngập lụt vẫn còn khá nghiêm trọng ở một số nơi. Ở miền Nam, thuộc lưu vực sông Cửu Long lũ lụt tràn ngập trên các cánh đồng lúa chưa chín, làm hư hại mùa màng. Người nông dân vừa khóc vừa lặn dưới nước mà cắt lúa sớm. Không cắt thì tiếc, mà lúa gặt sớm cũng chỉ là phí công!

5) Tháng 2 năm 1999, lãnh đạo Trung – Việt công bố “Tuyên cáo chung”, xác định phát triển quan hệ hai nước trong kỷ nguyên mới, nội dung được tóm thành: 4 Tốt, 16 chữ vàng: “ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu hảo, hợp tác toàn diện”. Từ đó lúc nào hai nước cũng nhắc tới mấy chữ này, dù Tào Cộng đang cướp cá, phá tầu, hoặc cắt cáp của dân chài VN trong vùng Biển Đông của mình. Nói tóm lại, đó chỉ là những từ ngữ đầu môi, chóp lưỡi, một thứ vỏ bọc đường bên ngoài viên thuốc độc, thực chất, bọn chúng là những tên đạo tặc, giết người, cướp của, mà ngày xưa Kim Dung, tác giả của những bộ truyện tầu nổi tiếng gọi là tụi “ma giáo”. Những cuộc biểu tình của dân chúng đòi lại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, biểu lộ lòng yêu nước, bảo vệ lãnh thổ, thì đều bị lực lượng công an của CSVN đàn áp thô bạo. Nhiều người trẻ ái quốc, tranh đấu, chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng, đều bị tuyên án tù nhiều năm.

6) Gần đây nhất, ngày 15-6-2018 Quốc Hội CSVN dự định bỏ phiếu thông qua Dự Luật cho Trung Cộng thuê 99 năm 3 đặc khu kinh tế, nhưng thực chất là bàn giao ba Đặc Khu tự trị cho Tàu là: Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Nha Trang) và Phú Quốc (Kiên Giang), 3 đặc khu nói trên nằm trong địa thế chiến lược có tầm quan trọng về quân sự, kinh tế và chính trị, nên nó có tính chất mở đường nhanh chóng cho việc Trung Cộng thôn tính toàn cõi Việt Nam.

Các bạn lấy tấm bản đồ VN nối liền ba khu tự trị với những phố Tàu và những vùng lãnh thổ gọi là cho thuê trên khắp các tỉnh từ Bắc vô Nam, thì biết bọn CSVN đã giao đất nước VN của dân tộc VN cho bọn Tầu ô tới đâu rồi! Chưa kể dân của chúng tự do ra vào như chỗ không người. Tình báo Hoa Nam thì như cái mạng nhện bao bọc con mồi là Thủ đô Hà Nội, khắp đất nước VN, chỗ nào cũng có nhân viên của sở Tình báo Trung ương Bắc Kinh dưới tên gọi là Quốc Tế Tình Báo Sở. Chúng dòm chừng mọi hoạt động của bọn Thái thú VN. Nói thế tức là chính trị đã ở trong tay bọn Tàu ô. Kinh tế VN cho tới năm nay (2018), 85% các công ty lớn nhỏ, quan trọng và kém quan trọng đều nằm trong sự đấu thầu của TC. Cho nên bao nhiêu hàng hóa độc hại bị các QG phương Tây trả về, Tầu Cộng đều thồn qua VN, chẳng khác nào quê hương ta trở thành bãi rác của Tầu, vùng trời VN trở thành vùng trời của Tầu, tức là ô nhiễm y hệt như khung trời ô nhiễm bên TQ. rồi những Cty của Tàu sản xuất tại VN mang nhãn hiệu VN, nhưng thực chất là hàng độc Trung quốc. Hầu hết các công ty TC thì TC đưa chuyên viên và nhân công của họ qua, vì ngoài việc giải quyết nạn thất nghiệp cho dân của họ, chúng còn phải bảo mật kế hoạch dùng độc chất pha trộn trên mọi loại hàng hóa trong âm mưu thâm độc là diệt chủng dần dần có thời hạn dân tộc VN và nhân dân khắp thế giới. Như vậy thì dân mình vừa thất nghiệp, mà sinh viên ra trường cũng không có việc làm, rõ ràng là từ từ “cái học cũng chẳng còn ích gì cho thời buổi này”.

Trở lại dự án 3 đặc khu tự trị, vì đảng và nhà nước CSVN hoàn toàn không hỏi ý kiến của toàn dân, nên những ngày vừa qua, toàn dân VN nổi giận, biếu tình tại nhiều nơi lên tới hàng chục ngàn người, dù đã bị công an của đảng và nhà nước CSVN cùng với bọn Trung Cộng ngụy trang đàn áp thô bạo.

Ngày 12-6-2018, Quốc Hội bù nhìn CSVN thông qua Luật An Ninh Mạng, đòi hỏi các công ty Internet ngoại quốc hiện diện tại VN phải thông tri lý lịch tất cả người VN sử dụng và không được đăng tải những thông tin, bài viết và những đoạn phim biểu tình chống lại Trung Cộng. Mục đích của chúng là cắt đường giây liên lạc trong quần chúng nhân dân, để ngăn ngừa biểu tình, hay các cuộc nổi dậy mà chúng e rằng sẽ xảy ra trong tương lai.

7) Việt Nam hoàn toàn bị lệ thuộc về chính trị:

a- Tất cả mọi cán bộ cao cấp Việt Nam đều phải qua Trung Quốc thụ huấn. Điều nầy chứng tỏ VN đã lệ thuộc vào Trung Cộng. Tiếng gọi tuy hai, nhưng là một: Cán bộ địa phương của khu tự trị sắc tộc Việt được chính quyền trung ương huấn luyện, là chuyện bình thường trong nội bộ của một nước. Mục đích là chúng giáo dục, đào tạo tất cả những kẻ đang và sẽ lãnh đạo VN theo đường lối duy nhất của Bắc Kinh.

Thậm chí ngay cả đường lối bang giao với tây phương (tiêu biểu là Mỹ), cũng do Bắc Kinh chỉ đạo. Chúng ta cứ xem việc các lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN, trước khi đi Mỹ đều phải qua trình diện, xin phép, và cam kết trung thành với quan thầy Tàu ô thì rõ:

– Nguyễn Minh Triết: Qua Tàu ngày 16-5-2007. Qua Mỹ ngày 22-6-2007.

– Trương Tấn Sang: Qua Tàu ngày 19-6-2013. Qua Mỹ ngày 25-7-2013.

– Phạm Quang Nghị: Qua Tàu ngày 8-9-2013. Qua Mỹ ngày 27-7-2014. Vì có sự tranh giành với Phạm Bình Minh.

– Phạm Bình Minh (Qua Mỹ lần thứ nhất): Qua Tàu ngày 12-2-2014. Qua Mỹ ngày 1-10-2014.

– Nguyễn Phú Trọng: Qua Tàu ngày 7-4-2015. Qua Mỹ ngày 10-7-2015.

– Phạm Bình Minh (Qua Mỹ lần thứ 2): Qua Tàu ngày 16-18/4/2017. Qua Mỹ ngày 20-21/4/2017.

– Đinh Thế Huynh: Qua Tàu ngày 19-10-2016. Qua Mỹ ngày 24-10-2016.

– Nguyễn Xuân Phúc: Qua Tàu ngày 16-9-2016. Qua Mỹ ngày 29-5-2017.

Điều nầy chứng tỏ Việt Nam đã không còn chủ quyền quốc gia nữa! Việc VN bang giao với Tây phương bây giờ, cũng nằm trong kế hoạch của Tầu Cộng.

b- Bắc Kinh ra lệnh Ba Đình định hướng dư luận: Chúng bắt đảng CSVN chỉ đạo chính phủ bù nhìn phải định hướng dư luận, cấm người dân bày tỏ phản đối chống những hành động côn đồ của Trung Cộng ở Biển Đông. Cấm những cuộc biểu tình yêu nước. Cấm những bài viết kêu gọi chống ngoại xâm. Để tuân hành lệnh của Bắc Kinh, nhà cầm quyền đã gởi văn thư đến các trường đại học, Các ký túc xá, các trường cao đẳng, ra lịnh cấm biểu tình. Các phòng, ban có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo những sinh viên biểu tình để đuổi học. Tất cả nhửng sự kiện hiển nhiên đó cho thấy Việt Nam đã mất chủ quyền dân tộc, các lãnh đạo Đảng và nhà nước chỉ là bọn thái thú người Việt mà thôi. Người Tàu xem chúng như những tên đầy tớ, còn VN chúng gọi là đứa con hoang trong đại gia đình các sắc tộc Trung Quốc. Ngược lại đối với người dân Việt, thì từ HCM trở xuống cho đến các đảng viên đảng CS đã và đang cầm quyền, tất cả đều là một lũ bán nước. Tất cả chỉ biết “Hèn với giặc, ác với dân”. Phải chăng chính bản chất đó đã khiến chúng phải ký vào biên bản Hội nghị Thành Đô năm 1990./.